Thứ Ba, 28 tháng 10, 2008

“Phố A18” giữa thủ đô Ba Lan

Lê Diễn Đức

Buổi giới thiệu triển lãm ảnh Little Saigon of Warsaw và bộ phim tài liệu Phố A18 diễn ra vào tối ngày 15/09/2008 tại trụ sở của Hội Tự do Ngôn luận (SWS).

SWS là tổ chức xã hội có nhiều cảm tình với nhân dân Việt Nam, đã ủng hộ, vận động và tích cực giúp đỡ anh chị em người Việt tham gia các hoạt động dân chủ tại Ba Lan. Một ví dụ điển hình, trong năm 2006, SWS đã tổ chức hội nghị cho người Việt từ khắp nơi trên thế giới tới Ba Lan tham dự hội thảo và thành lập “Uỷ ban Bảo vệ Công nhân” tại hội tường Quốc hội Ba Lan, bất chấp sự phản đối chính thức của Bộ Ngoại giao Hà Nội.

Tối hôm đó, phòng sinh hoạt quá nhỏ của SWS chật cứng các nhà báo, sinh viên, quan khách Ba Lan và những người Việt quan tâm. Tỉnh trưởng tỉnh Mazowiecki (tỉnh có thủ đô Warsaw) đến dự và công bố khai mạc.

Đáng chú ý là, trong các bức ảnh của nghệ sĩ Lukas Kotschy-Wilk, nói về cuộc sống, sinh hoạt của cộng đồng người Việt tại Ba Lan có vài tấm đã gây “phản cảm”: Tấm hình có lá cờ vàng ba sọc đỏ trong một cuộc biểu tình của người Việt và người Ba Lan tại thủ đô Warsaw, phản đối nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam vi phạm nhân quyền. Hình chụp cảnh cô Tôn Vân Anh, thông tín viên của RFA bị đuổi khỏi Dinh Belweder, nơi Thủ tướng Ba Lan tiếp khách và họp báo nhân dịp Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thăm Ba Lan vào 9/2007. Tấm hình Thủ tướng Ba Lan đứng bên Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, phía dưới có câu chế giễu: “Quốc tế Cộng sản Hậu Công đoàn Đoàn Kết”. Một tấm khác chụp người lính trong đội danh dự cầm cờ Ba Lan (có đại bàng trắng) chào Thủ tướng việt Nam với tựa đề mỉa mai: “Đại bàng trắng chào ai?”…

Những người trong ban tổ chức nói với báo chí Ba Lan rằng, có lẽ vì những tấm hình nêu trên, mà toà đại sứ Việt Nam đã có những áp lực ngoại giao. Vì thế, lẽ ra cuộc triển lãm đã được trưng bày tại Toà thị chính Warsaw hai tuần trước đó (dưới sự bảo trợ của Phó chủ tịch Thượng viện Ba Lan và Thị trưởng thành phố Warsaw), thì bị đình hoãn và phải chuyển về Hội Tự do Ngôn luận. Tuy nhiên, trong bài phát biểu, ông Tỉnh trưởng Kozlowski khẳng định rằng, ông không hề có bất kỳ liên hệ nào với toà đại sứ Việt Nam và việc từ chối xuất phát từ lý do kỹ thuật. Điều đó được khẳng định bằng chính sự có mặt của ông trong buổi khai mạc này.


“Phố A18” là gì?

Đây là tên đặt cho bộ phim tài liệu nói về hoạt động của an ninh cộng sản Việt Nam tại Ba Lan và dư luận xã hội cũng như của chính quyền Ba Lan xung quanh vấn đề này. Bộ phim được quay chỉ trong một tuần, nhân ngày văn hoá Việt Nam do Thành phố Warsaw tài trợ. Đạo diễn, quay phim là hai cô gái trẻ, lần đần tiên viết kịch bản và cầm máy: cô Đặng Thu Hương, bác sĩ vừa mới ra trường, hiện đang làm việc tại một bệnh viện ở Warsaw; và cô sinh viên Ba Lan - Maria Kotowska. Bộ phim có sử dụng tư liệu nước ngoài, của Công đoàn Đoàn kết Ba Lan và một số hình ảnh của Lukas Kotschy-Wilk đã được nói ở trên.

Tôi quan sát thấy mọi người chăm chú xem và thỉnh thoảng bật cười khi nghe viên trung tá biên phòng Ba Lan trả lời/biện minh trước các câu hỏi khó của những người làm phim. Số ghế ngồi có hạn nên rất nhiều người phải đứng xem. Thoạt nghe có tiếng khóc của một phụ nữ Việt Nam phía sau. Đó là lúc chiếu những hình ảnh người Việt vượt biển sau năm 1975 và người Việt trong các trại giam ở Ba Lan…

Bộ phim đơn giản, không dài, chỉ khoảng 1 giờ đồng hồ, nhưng đã làm khán giả hiểu được tổng thể những hoạt động của A18 tại Ba Lan và thái độ của công chúng Ba Lan trước vấn đề này. Tôi nhìn thấy sự xúc động thực sự của những người tham dự. Mọi người đã đến bắt tay, khen ngợi và cám ơn hai cô gái làm phim.

Trong tuần liên hoan phim Việt Nam đầu tháng 10/2008 vừa qua, bộ phim Phố A18 đã được trình chiếu tại rạp Muranow cùng với nhiều phim khác như Mùa hè chiều thẳng đứng (của đạo diễn Trần Anh Hùng, Pháp, 2000); Vượt sóng (Ham Trang, USA, 2006), Oh, Mummy (Jenni Trang Le, USA,2007); Owl and the Sparrow (Stephane Gauger, USA, 2008), v.v…


Từ “Phố A18” đến sự thật

Sự việc khuấy động dư luận bắt đầu từ tháng 2 năm 2008.

Gazeta Wyborcza (GW), nhật báo lớn nhất của Ba Lan ngày 22/02/2008 đưa tin: vào lúc 6 giờ ngày 20/02/2008 Biên phòng Ba Lan đã mở một cuộc bố ráp vào ba khách sạn nằm ở Wolka Kosowska, ngoại ô Ba Lan, cách trung tâm Warsaw khoảng 25 km.

Wolka Kosowska là nơi tập trung các trung tâm dịch vụ, thương mại lớn nhất Ba Lan của người Việt và người Trung Quốc, hàng ngày tấp nập bán buôn với con số vài ngàn người. Cần phải nói rằng, cộng đồng người Việt ở Ba Lan, theo ước tính từ nhiều nguồn khác nhau, có khoảng từ 30 đến 50 ngàn người, nhưng có đến 40-60 phần trăm không có giấy tờ cư trú hợp pháp. Những người này thường sang đây hoặc hợp pháp nhưng khi hết hạn chiếu khán thì không được gia hạn tiếp; hoặc bất hợp pháp qua đường rừng biên giới phía Đông Ba Lan.

Mỗi khu nhà trong trung tâm đều rất khang trang, có hàng trăm quầy hàng bán sỉ các loại hàng hoá, chủ yếu là quần áo may sẵn và đồ gia dụng nhập từ Trung Quốc, Việt Nam… Trung tâm này do người Việt và người Trung Quốc đầu tư xây dựng, sau đó cho đồng hương thuê lại. Trong khu nhà ASG của chủ người Việt, hay khu nhà GD chủ người Tàu, một quầy hàng với diện tích khoảng 150-200m2 có thể sang nhượng với giá từ một tới vài trăm ngàn đô la, tuỳ theo thời điểm.

Vì buôn bán ở ngoại ô xa nên khoảng từ hơn hai năm nay, để thuận tiện đi lại, rất nhiều người Việt chuyển từ thành phố vào ở trong các khách sạn – đúng hơn là nhà trọ/motel - do người Việt xây cất nằm sát cạnh trung tâm.

Theo nhật báo Ba Lan, trong cuộc bố ráp các khách sạn nói trên, có 89 người Việt và 6 người Hoa bị bắt giữ. Ngay lập tức, báo chí đã chỉ trích gay gắt việc Biên phòng Ba Lan lạm dụng quyền hạn, vi phạm nhân quyền, có hành vi khủng bố, vì đã bằng bạo lực đột nhập các khách sạn và có thái độ thô bạo khi tiến hành xét hỏi và bắt giữ người nước ngoài.

Đa số những người bị tạm giữ để điều tra xác minh là những người không có giấy tờ cư trú hợp pháp. Một cộng tác viên của Amnesty International (AI) cho nhật báo này hay rằng, “cộng đồng bị áp lực do có sự cộng tác giữa an ninh Việt Nam với Biên phòng Ba Lan. Mà Việt Nam là một trong vài nước còn lại trên thế giới có chế độ toàn trị. Trong số những người bị bắt có 11 người nằm trong sổ đen của an ninh Việt Nam”.

“Đã có một lần vào mùa hè 2007, một nhóm cán bộ Cục A18 của Bộ Công an Việt Nam sang Ba Lan. Cùng với nhân viên toà đại sứ, họ đã hỏi cung những người Việt bị bắt giữ. Một phần trong số người này đã từ chối không khai báo, phần còn lại bị thẩm vấn tại các trại giam ở Leszno-Wola và Okecie. Họ bị công an ép buộc hợp tác và đe doạ rằng, từ chối đồng nghĩa với việc bị trục xuất về nước” – nhật báo thuật lại lời cộng tác viên của AI.

Sự có mặt của an ninh/mật vụ Việt Nam tại Ba Lan dựa trên hiệp định trao trả công dân được ký kết giữa Ba Lan và Việt Nam năm 2004. Theo giải thích của Biên phòng Ba Lan, phía Ba Lan cần sự giúp đỡ của Việt Nam để xác minh danh tính cho tiến trình làm thủ tục trục xuất. Hiệp định cho phép “trong những trường hợp cần thiết, đại diện ngoại giao hoặc lãnh sự có thể hỏi cung”. Thế nhưng trong thực tế, cách làm khác lạ của A18 trên lãnh thổ Ba Lan đã gây phản ứng mạnh trong dư luận xã hội.

Giáo sư Zbigniew Holda, Phó chủ tịch Amnesty International Ba Lan nói: “Làm sao chúng ta lại ký hiệp định như vậy với một quốc gia vi phạm nhân quyền? Với nội dung của nó, hiệp định này không nên ký kết”.

“Hiệp định đã bị lợi dụng để trấn bức những người Việt đối lập với chế độ đang sống ở Ba Lan” – Cô Tôn Vân Anh, thành viên của Hội Tự do Ngôn luận, nói - “Chúng tôi đã gọi điện thoại nói chuyện với những người bị thẩm vấn. Một người trong số đó đã hai lần chạy trốn khỏi đất nước. Anh ta đang xin quy chế tị nạn tại Ba Lan và được bảo vệ bằng Công ước Quốc tế Geneva. Người ta không cho anh biết trước sẽ gặp ai trong lúc thẩm vấn” - Vân Anh thuật lại - “Hai người đàn ông và một phụ nữ của A18 hỏi cung tôi” – anh ta kể.

Điều tra các cuộc thẩm vấn khác, cô Tôn Vân Anh cũng cho nhật báo hay rằng, nhân viên A18 thường ép họ hợp tác, cung cấp thông tin về những người Việt mà họ cho là chống đối chế độ và đe doạ sẽ bị trục xuất nếu từ chối đề nghị của công an. Ngoài ra, nguồn tin từ cộng đồng cho tôi biết thêm, có một số người Việt sống hợp pháp tại ở Ba Lan là những “chỉ điểm” viên của A18.

Tác giả Lê Diễn Đức trong buổi trao đổi tại Đài Phát thanh Ba Lan, Program I

Trong một buổi trao đổi gần đây trên Program I, đài phát thanh Ba Lan (Polskie Radio), với tham dự của ông Z. Romaszewski, phó chủ tịch Thượng viện Ba Lan, tôi có nói trước công luận rằng, phía Ba Lan cần đến sự giúp đỡ của Việt Nam để xác minh lý lịch những công dân Việt Nam không có giấy tờ cư trú hợp pháp - có thể xem là chuyện bình thường. Thế nhưng hiệp định nêu rõ rằng, việc thẩm vấn phải được thực hiện bởi đại diện ngoại giao hoặc lãnh sự, chứ không phải bởi công an của A18 từ Việt Nam cử sang. Đành rằng, đại diện ngoại giao hay lãnh sự có thể là người của A18, nhưng khi khoác hàm ngoại giao làm việc tại Ba Lan, họ sẽ phải ứng xử khác, thận trọng hơn. Hơn nữa, cần lưu ý rằng, Hà Nội chưa bao giờ có chính sách ủng hộ chính phủ các nước trục xuất những công dân lương thiện của mình về Việt Nam. Ngược lại, Hà Nội tạo điều kiện dễ dãi cho người Việt đi lao động, làm ăn ở nước ngoài. Hàng trăm ngàn người Việt đang lao động, lấy chồng, buôn bán ở Malaysia, Hàn Quốc, ở các nước Nga, Ba Lan, CH Czech hay các nước Ả Rập… chứng minh điều này. Cho nên tôi nghi ngại rằng, nếu chính phủ Ba Lan không lường trước hậu quả, sẽ rất dẫn tới việc vấn đề trục xuất bị lợi dụng cho mục đích khác. Cần phải hành động để ngăn chặn công an A18 tống tiền nạn nhân hoặc thân nhân của họ, điều mà cộng đồng người Việt ở Đức cho là phổ biến một thời.

Ông Seweryn Blumsztain, biên tập viên quan trọng của nhật báo Gazeta Wybocza, cựu thành viên Ủy ban Bảo vệ Lao động (KOR), đối lập dân chủ từ khi còn là thiếu niên, từng ngồi tù cộng sản đã phát biểu (GW 23/02/2008) rằng: “Lâu lắm rồi, chưa bao giờ tôi hổ thẹn về đất nước của mình như vậy. Biên phòng Ba Lan, y như kẻ phân biệt chủng tộc, đã bắt giữ mấy chục người Việt và đối xử hết sức thô bạo với họ. Họ bị bắt để rồi công an của Việt Nam hỏi cung. Và các ông này quyết định những người tị nạn có bị trục xuất hay không. Cả lịch sử tị nạn chính trị của người Ba Lan đã từng được bảo bọc bởi biết bao dân tộc khác và những cái rất Ba Lan như ‘Vì tự do của chúng tôi và của các bạn’, ‘Công đoàn Đoàn kết’ và ‘Uỷ ban Bảo vệ Công nhân’ – tất cả những điều này chẳng có ý nghĩa gì sao? Một Ba Lan tự do dân chủ đã đối xử với người tỵ nạn và những người đối lập cộng sản Việt Nam như những con vật” – Ông nói.

Nghị sĩ quốc hội (đảng viên đảng đang cầm quyền PO) Dariusz Lipiński đã hai lần chất vấn trước quốc hội về vấn đề A18 và yêu cầu Bộ Nội vụ và Hành chính giải thích. Ông Lipiński cũng đã thẳng thắn khiển trách trên báo chí, rằng Bộ Nội vụ đã tránh né câu hỏi của ông.

Chúng ta cũng nên nhớ rằng, sau khi chế độ cộng sản bị xoá sổ vào năm 1989, Ba Lan là nước duy nhất trong các nước cựu cộng sản có hiến pháp cấm các tổ chức cộng sản, phân biệt chủng tộc và phát xít tuyên truyền, hoạt động. Đây cũng là một trong những tiền đề khiến dư luận xã hội Ba Lan bất bình về sự có mặt của an ninh cộng sản Việt Nam trên lãnh thổ mình.

Vì vậy, bất kỳ một hành động nào của A18 trên mảnh đất này đều đã và đang được các tổ chức xã hội, nhân quyền, báo chí, truyền thông Ba Lan quan tâm theo dõi sát sao. Chắc chắn tại Ba Lan dân chủ, công an A18 sẽ không có đất để tung tác, làm ăn, để lại những tai tiếng xấu như với cộng đồng người Việt miền Bắc xin tỵ nạn tại Đức sau những năm 90.

Warsaw 23/10/2008

Bản tiếng Việt © 2008 talawas

Thứ Hai, 27 tháng 10, 2008

Trứng gà Trung Quốc cũng nhiễm melamine

Chính quyền Hongkong đã phát hiện trứng gà nhập từ Trung Quốc đã nhiễm melamine, hàm lượng lên đến 4,7ppm. Điều này cho thấy trứng gà hiện đang được sử dụng tại Việt Nam hoàn toàn có nguy cơ như tại Hongkong vì chỉ từ đầu năm đến nay đã có 267.000 trứng gà TQ bị bắt do nhập lậu vào VN. Ai cũng biết số trứng gà không bị bắt có thể cao hơn số bị phát hiện nhiều lần do việc nhập hàng tiểu ngạch từ TQ là căn bệnh trầm kha và bất trị của thị trường VN hàng chục năm nay.

Chính phủ VN sẽ làm gì để đối phó...? Trước khi các cuộc họp liên miên bàn về nguy cơ melamine trong trứng gà có kết quả. Bắt đầu từ hôm nay bà con ta nên tự cứu mình bằng cách tẩy chay mọi loại trứng gà không rõ nguồn gốc. Và nên tẩy chay mọi lọai hàng hóa của anh ba Tàu... Ai biết được các thứ hàng hóa khác còn nhiễm những thứ gì nữa?

Thứ Sáu, 24 tháng 10, 2008

Điện khẩn cho báo chí lề phải

Công văn MẬT, của đảng ra lệnh cho báo chí phải tập trung xếp hàng theo lệnh. Kẻ nào trái lệnh này ắt phải trảm...

Còn bình luận thế nào đây???

Thứ Năm, 23 tháng 10, 2008

Diễn đàn trí thức VN???

Tia Sáng Online ngày 22/10/2008 có bài viết của Lại Nguyên Ân, hơi ngạc nhiên là vấn đề đã được bàn thảo công khai, hơi chệch "lề phải" và ý kiến của độc giả cũng được đăng như ý kiến của Dan Phan -

"Mao Trach Dong da noi, tri thuc co gia tri khong bang cuc phan, can phai sua lai nhu the nay moi dung, tri thuc cong san nhat la tri thuc cong san viet nam co gia tri khong bang cuc phan".



Không biết bài này hoặc ý kiến của độc giả trên chửi chính tờ Tia Sáng (vốn để tiêu chí là "một góc nhìn của trí thức") có bị gỡ xuống không, thử chờ xem...



Đừng từ “phải chê” sang “phải khen”
09:48-22/10/2008

Mấy hôm nay dư luận khá nóng với tin tức cuộc hội thảo lớn về vương triều Nguyễn. Người ta nói rằng hội thảo này sẽ dẫn đến nhiều thay đổi lớn, ví dụ sẽ phải viết lại Quốc sử (chỉ với đoạn sử triều Nguyễn hay tất cả các đoạn sử Việt?), sẽ phải sửa sách giáo khoa, v.v. …

Thế nhưng, tỉnh táo mà nhìn, đây dẫu sao cũng chỉ là chuyện nội bộ của giới sử học trong nước, nói rõ hơn, chỉ là chuyện nội bộ của sử học miền Bắc, lâu nay vốn vận hành trong quy phạm “phải chê” triều Nguyễn, gần như tuân theo cái lệ: triều đại vừa lên bao giờ cũng chê trách triều đại vừa đổ. Thời hạn “phải chê” có thể đã hết, nên nay đã đến lúc bảo nhau nhìn lại, đánh giá khác đi, v.v… Mọi điều gọi là “đột phá trong nhận thức về chúa Nguyễn, triều Nguyễn”, mọi lời khuyên răn “hãy trung thực, khách quan, công bằng với chúa Nguyễn, triều Nguyễn”, rõ ràng, chỉ có ý nghĩa đối với giới sử học “tại chỗ” của ta mà thôi!
Thực vậy. Thử nghĩ mà xem: liệu có thể đem những lời khuyên răn như trên để nói với Trần Trọng Kim, tác giả “Việt Nam sử lược”? hoặc nói với Lê Thành Khôi, với Tạ Chí Đại Trường, những sử gia người Việt làm nghiên cứu ở nước ngoài? Lại nữa, tình thế sẽ ra sao nếu đem những lời khuyên răn trên đây để nói với Li Tana, với Tsuboi, những chuyên gia nước ngoài về sử Việt?


Trước đây người ta bảo nhau phân tích sao cho ra những tội lỗi, những sai quấy càng nhiều càng tốt của các chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn; giờ đây đến lúc chỉ có khen và khen; người nghiên cứu nào có ý “chê” sẽ có nguy cơ bị tẩy chay! Một quy phạm mới hứa hẹn những nạn nhân mới! Đó đâu phải là điều đáng mừng?

Trung thực, khách quan, công bằng, − bao giờ cũng là những điều tối thiểu trong đạo đức nghề nghiệp của người làm nghiên cứu khoa học, là những điều cần được trang bị từ khi đang học hành tập tành để vào nghề nghiên cứu, là những tôn chỉ thiêng liêng luôn theo sát mọi suy tư mọi động thái trong nghiên cứu (ví dụ, mỗi khi đưa ra một từ ngữ mô tả, nhận định), chứ không phải là chuyện chỉ mới nảy ra giữa chừng đời, thậm chí cuối đời người nghiên cứu. Thành thử, những khuyên răn ấy vang lên giáo đầu cho hoạt động học thuật rầm rộ này, xem chừng lại như thú nhận những sự bất thường đã tồn tại bấy lâu.
Nhưng, điều không ít đáng quan ngại từ đây lại là khả năng hình thành một quy phạm mới thay cho quy phạm cũ, dù chỉ trên đề tài chúa Nguyễn, triều Nguyễn. Trước đây người ta bảo nhau phân tích sao cho ra những tội lỗi, những sai quấy càng nhiều càng tốt của các chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn; giờ đây đến lúc chỉ có khen và khen; người nghiên cứu nào có ý “chê” sẽ có nguy cơ bị tẩy chay! Một quy phạm mới hứa hẹn những nạn nhân mới! Đó đâu phải là điều đáng mừng?
Nghiên cứu là đi vào xúc tiến nhận biết đối tượng với càng ít định kiến có sẵn càng tốt. Sự đột phá chỉ đến khi phát hiện những dữ liệu hoàn toàn mới mẻ của đối tượng nghiên cứu, hoặc khi xuất hiện những tư tưởng nghiên cứu mới mẻ trên một đối tượng cũ. Việc những đồng nghiệp đồng lòng nhất trí một thái độ mới (mà tựu trung là “khen” thay vì “chê”) trên một đối tượng nghiên cứu cũ, phải chăng đã có thể xem là sự đột phá?
Lĩnh vực trứ tác học thuật có khía cạnh tương tự lĩnh vực sáng tạo nghệ thuật: đó là sự bộc lộ bản sắc, phong cách người trứ tác trên chính những tác phẩm, công trình có giá trị. Sử học cũng không nằm ngoài thông lệ ấy. Cho nên, trên những đề tài như về các chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn hay bất cứ đề tài nào khác, điều đáng chờ đợi là những công trình tác phẩm có giá trị mang phong cách cá nhân nhà nghiên cứu chứ không phải những cuốn sách có giọng điệu khen ngợi khẳng định na ná nhau, khiến người ta nghĩ đến dàn đồng ca, hoặc tệ hơn, đến sự lựa chọn trên sàn chứng khoán của các nhà đầu cơ “bầy đàn”!

Ý kiến của bạn?

Lại Nguyên Ân



Văn Hoàng - Sài gòn
23/10/2008

Cách đây mấy năm, GS Phan Huy Lê đã trả lời phỏng vấn một vài Đài nước ngoài về việc anh hùng Lê Văn Tám chỉ là một... truyện ngắn của nhà sử học Trần Huy Liệu. Ông cho biết sẽ công bố sự thật lịch sử này trong nước vào một "thời điểm thích hợp". Hiện nay, rất nhiều người đã biết sự thật này. Vậy tại sao chúng ta không công khai sự thật? Tôi thấy điều này quá khó hiểu. Xin chuyển câu hỏi này đến GS Phan Huy lê giúp tôi!

Hải Anh - Nguyễn Tiểu la - Quận 10 - Tp.HCM
22/10/2008

Tác giả Lại Nguyên Ân có những nhận định rất chuẩn xác.
Xưa nay các nhà làm khoa học của Việt nam hay bị định hướng chính trị và tư tưởng, do đó hay làm "hùa" theo ý kiến chỉ đạo chung chung và bị ảnh hưởng của hiệu ứng "bầy đàn". Nếu có nhiều người nói tốt cũng chạy theo tôt, nêu có nhiều người chê trách lại cũng chạy theo đuôi.

Nếu chúng ta nhìn lại cách viết của các nhà sử học trong sách giáo khoa ở trường trung học cơ sở và bậc tú tài giai đoạn những năm sau 1975-trước đổi mới (khoảng những thập niên đầu 80), thì cái gì cách mạng và cộng sản cũng "chiếm ưu thế", "thắng", "thành công"...còn phe đối nghịch thì "thua tan tác", "thất bại thảm hại"...mặc dù ta cũng bị sức đầu lỗ trán trong bất kỳ cuộc chiến nào ! Những ngôn từ như "chủ nghĩa tư bản giãy chết"...cũng được sáng tạo từ những nhà sử học "nữa vời" viết theo đuôi để kiếm sống và tồn tại.

Từ nay, chúng ta hãy nói cho đúng, nhất là sử sách. Có thì nói có, không thì nói không. Có như vậy mới không cần những cuộc hội thảo nặng nề, tốn kém mà chỉ đi tranh cãi cái điều "chân lý" !

Hải Anh

Sài Gòn , tháng 10/2008

23/10/2008

Mao Trach Dong da noi, tri thuc co gia tri khong bang cuc phan, can phai sua lai nhu the nay moi dung, tri thuc cong san nhat la tri thuc cong san viet nam co gia tri khong bang cuc phan.

23/10/2008


Tôi vừa đọc xong bài tổng kết về hội thảo của GS Phan Huy Lê trên VietNamnet. Toi không đồng với những vấn đề hội thảo nhất trí và chưa nhất trí, xét về phương pháp . Theo tôi, đối với khoa học, vấn đề là có căn cứ hay không có căn cứ chứ không phải đồng thuận hay chưa đồng thuận. Có đủ căn cứ thì một phiếu cũng là chân lý ! Quá khứ cho thấy, không ít " nhà khoa học" của ta " nhất trí" hay " lên án" những tác phẩm mà họ chưa hề nghiên cứu gì. Đàn anh của ta, Hội nhà văn Liên Xô từng bỏ phiếu lên án " Doctor Jivago" nhưng rất ít người từng đọc tác phẩm này !

22/10/2008

Tác giả Lại Nguyên Ân có những nhận định rất chuẩn xác.
Xưa nay các nhà làm khoa học của Việt nam hay bị định hướng chính trị và tư tưởng, do đó hay làm "hùa" theo ý kiến chỉ đạo chung chung và bị ảnh hưởng của hiệu ứng "bầy đàn". Nếu có nhiều người nói tốt cũng chạy theo tôt, nêu có nhiều người chê trách lại cũng chạy theo đuôi.

Nếu chúng ta nhìn lại cách viết của các nhà sử học trong sách giáo khoa ở trường trung học cơ sở và bậc tú tài giai đoạn những năm sau 1975-trước đổi mới (khoảng những thập niên đầu 80), thì cái gì cách mạng và cộng sản cũng "chiếm ưu thế", "thắng", "thành công"...còn phe đối nghịch thì "thua tan tác", "thất bại thảm hại"...mặc dù ta cũng bị sức đầu lỗ trán trong bất kỳ cuộc chiến nào ! Những ngôn từ như "chủ nghĩa tư bản giãy chết"...cũng được sáng tạo từ những nhà sử học "nữa vời" viết theo đuôi để kiếm sống và tồn tại.

Từ nay, chúng ta hãy nói cho đúng, nhất là sử sách. Có thì nói có, không thì nói không. Có như vậy mới không cần những cuộc hội thảo nặng nề, tốn kém mà chỉ đi tranh cãi cái điều "chân lý" !

Hải Anh

Sài Gòn , tháng 10/2008

23/10/2008

Cho tôi hỏi nhỏ các nhà sử học thôi nhé. Hồi trước tôi được học về gương cậu bé Kim Đồng làm liên lạc, thú vị lắm cứ như ... thật! Tôi có người quen ở nước ngoài nói rằng Kim Đồng là tưởng tượng, do chính người này tạo nên. Không biết có thật hay không đây. Mà tôi nghe nhiều người nói là Kim Đồng không có thật.

(Đừng nói tôi là phản động đấy, chỉ tò mò muốn biết sự thật tí thôi).
HOa Đăng

Nguyễn Đình Đăng - Tokyo - Japan
23/10/2008

Việc lịch sử Việt Nam bị bóp méo trong các tài liệu, sách báo, sách giáo khoa lịch sử xuất bản tại miền Bắc trước đây, và tiếp tục bị bóp méo sau này là điều cũ ... như tuổi của nước Việt Nam DCCH hay CHXHCN Việt Nam. Nhiều người hẳn đến nay còn nhớ cụ Alexander Rhodes đã bị quy là gián điệp cho Pháp, cụ Nguyễn Văn Vĩnh đã bị gọi là bồi bút của Pháp, cụ Phạm Quỳnh đã bị gán cho tội làm tay sai cho Pháp v.v. Đến ngay vài sự kiện xảy ra mới hôm qua, tuần trước, tháng trước thôi mà còn bị báo chí, các phương tiện truyền thông cắt xén, xuyên tạc, nói sai sự thật, nói chi đến chuyện vua quan nhà Nguyễn!

Chợt nhớ tới hai câu thơ sau, nghe nói là của thi sĩ Nguyễn Bảo Sinh:

"Làm hàng giả tù mọt gông,
Viết lịch sử giả lại không việc gì !"

và một trong 14 điều Phật dạy:

"Ngu dốt lớn nhất của đời người là dối trá."


Tokyo 23/10/2008

Phạm Duy Hiển - 8 Yên Bái Vũng Tàu
23/10/2008

Xin gửi đến ông Phan Huy Lê và ông Dương Trung Quốc, những nhà sử học hàng đầu Việt Nam!

Thế ông Trần Dân Tiên là ai và mả của ông ấy ở đâu để thỉnh thoảng chúng tôi con đến thắp vài nén nhang.
Xin xám ơn Ban biên tập Tia Sáng

Thứ Tư, 22 tháng 10, 2008

Xung quanh một số chỉ số


Xếp hạng tự do báo chí của Việt Nam theo tổ chức Phóng viên Không biên giới (điểm càng thấp càng tốt).

Năm 2002: 131/139: 81,25

Năm 2003: 159/166: 89,17

Năm 2004: 161/167: 86,88

Năm 2005: 158/167: 73,25.

Năm 2006: 155/168: 67,25

Năm 2007: 162/169: 79,25

Năm 2008: 168/173: 86,17.

Như vậy, tính từ năm 2002, tự do báo chí Việt Nam tồi đi trong năm 2003, tiến bộ dần trong các năm 2004 tới 2006, nhưng lại tồi hẳn đi trong hai năm 2007 và 2008. Năm 2006 là năm báo chí Việt Nam tự do hơn cả, khi nền báo chí cách mạng được bọn tư bản thối tha cho là tự do hơn 13 nước trong tổng số 168 nước được khảo sát. Nhưng năm 2008, báo chí Việt Nam chỉ còn được đánh giá là tự do hơn 5 nước (trong 173 nước).

Trong năm 2008, báo chí Việt Nam tự do hơn những nước nào: Cuba, Miến Điện, Turkmenistan, Bắc Hàn và Eritrea. Ngoại trừ Việt Nam, tất cả các nước trên đều dưới sự cai trị của độc tài hay quân phiệt (Miến Điện). Ngoại trừ Miến Điện, những nước còn lại đều là những nước độc đảng (Miến Điện tuy chính quyền nằm trong tay một đảng và không có bầu cử tự do nhưng các đảng khác vẫn được phép hoạt động). Không ngoại trừ nước nào, tất cả các nước này đều nằm dưới sự lãnh đạo của các đảng Cộng sản hay XHCN, hoặc từng là Cộng sản hay XHCN.

Ở Turkmenistan chẳng hạn, khi Liên Xô sụp đổ, Đảng Cộng sản nước này đổi tên thành Đảng Dân chủ Turkmenistan và cấm tất cả các đảng khác hoạt động. Tổng thống nước này (mới chết cuối năm 2006), thành Tổng thống suốt đời, và tất cả các đại biểu Quốc hội do Tổng thống chỉ định. Ở Miến Điện, đảng lãnh đạo là đảng có khuynh hướng XHCN trong quá khứ, ở Eritrea cũng tình trạng tương tự. Còn Cuba và Bắc Hàn thì tất nhiên là Đảng Cộng sản lãnh đạo (giống Việt Nam).

Báo chí Việt Nam kém tự do hơn những nước nào: “người bạn lớn” Trung Quốc, nhà nước Hồi giáo cực đoan Iran, nước láng giềng cùng theo chế độ độc đảng Lào, các quốc gia độc tài Uzbekistan, Libya, Syria, Saudi Arabia…Vâng, báo chí Việt Nam còn ít tự do hơn báo chí các nước đó.

Một điều có vẻ như là nghịch lý nếu nhìn vào xếp hạng này là tự do báo chí của Việt Nam tồi hẳn đi trong hai năm 2007, 2008 là những năm mà những lãnh đạo được coi là cấp tiến (Minh Triết, Tấn Dũng) lên nắm quyền. Thậm chí cả TBT Nông Đức Mạnh cũng được coi là người trung dung chứ không hẳn là bảo thủ. Và tự do báo chí ngày càng bị bóp nghẹt dù giới lãnh đạo được coi là “cấp tiến”, trẻ trung, có học thức hơn trước.

Ngoài chỉ số tự do báo chí của Phóng viên không biên giới, còn có chỉ số tự do báo chí của FreedomHouse. Theo chỉ số này thì năm 2007, Việt Nam đứng thứ 170/195 về tự do báo chí, một kết quả cũng tương tự so với chỉ số của Phóng viên ko biên giới.

Một chỉ số đáng quan tâm khác là chỉ số tham nhũng của Transparency. Năm 2008, Việt Nam xếp thứ 121/178, với điểm 2,7/10 (càng cao, càng ít tham nhũng). Từ năm 2004 tới 2007, chỉ số tham nhũng của VN giữ nguyên là 2,6. Như vậy, có thể nói, bất chấp các quyết tâm (quyết tâm, quyết tâm, quyết tâm!) chống tham nhũng của Chính phủ, tham nhũng ở Việt Nam không hề giảm.

Một chỉ số liên quan khác là Economic Freedom của Heritage. Năm 2008, Việt Nam đạt 49,8/100 (càng cao càng tự do kinh tế), xếp hạng 135/165 nước. Chỉ số này được xây dựng dựa trên các đánh giá về mức độ tự do kinh doanh, tự do thương mại, ít tham nhũng…., tức là các chỉ số liên quan tới độ tự do trong môi trường kinh doanh. Quan sát bảng dưới chúng ta thấy, tự do kinh tế Việt Nam cũng thụt lùi trong hai năm 2007 và 2008 so với 2006.


2008

2007

2006

2005

2004

2003

2002

Điểm

49.8

49.4

50.1

47.6

46.1

46.2

45.6

Xếp hạng

135

140

137

141

141

142

140



Ngoài ra còn một số chỉ số khác như chỉ số chất lượng thể chế của WB. Chỉ số này tập hợp các dữ liệu về quyền tự do ngôn luận và quyền đại diện của người dân (voice and accountability), sự ổn định chính trị (political stability), hiệu quả chính quyền (government effectiveness), chất lượng chính sách (regulatory quality), hiệu lực pháp luật (rule of law) và kiểm soát tham nhũng (control of corruption) của hơn 200 nước và lãnh thổ trên thế giới. Trừ sự ổn định chính trị, tất cả các chỉ số trên của Việt Nam đều thấp hơn mức trung bình của thế giới. Trong đó nghiêm trọng nhất là quyền tự do ngôn luận và quyền đại diện của người dân, có sự tồi tệ hẳn từ năm 2005 tới 2007, và hiện nay Việt Nam ở trong số 7% tồi tệ nhất của thế giới về những quyền này. Cũng thụt lùi từ năm 2005 tới 2007 là hiệu lực của pháp luật và chất lượng của bộ máy chính quyền. Trong khi đó, theo đánh giá của WB thì Việt Nam có tiến bộ đôi chút trong việc kiểm soát tham nhũng trong cùng thời gian (tuy vẫn kém hơn 70% các nước về khả năng kiểm soát tham nhũng) và về chất lượng của chính sách (kém hơn 64% các nước).

Và đó là vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Nhìn chung tính theo mọi chỉ số (kể cả về thu nhập bình quân đầu người), Việt Nam thường xuyên kém hơn 70% các nước khác trên thế giới. Riêng trong lĩnh vực quyền tự do ngôn luận, quyền bầu cử và quyền tự do báo chí thì chúng ta kém hơn ít nhất là 90% các nước trên thế giới. Nếu tính theo dân số, vì Việt Nam là một nước đông dân nên chắc hẳn chúng ta sẽ nằm trong số 10% nghèo nhất và 5% kém tự do, mất nhân quyền nhất trên thế giới.

Và đó là tính cả một tỷ người ở châu Phi nơi chịu sự hoành hành bởi bệnh tật, nội chiến và các chính quyền độc tài ngu dốt. Nếu chỉ so với các nước xung quanh ta thì vị thế còn tồi tệ hơn nhiều. Thử hỏi ở châu Á này, ngoài Miến Điện và Bắc Hàn, còn có nước nào vừa nghèo hơn Việt Nam, vừa ít tự do hơn Việt Nam không? Tôi nghĩ là không.

Chúng ta vẫn tự hào là người Việt thông minh, cần cù, hiếu học. Nhưng tại sao thông minh, cần cù, hiếu học như thế mà chúng ta lại kém hơn phần lớn nhân loại về mọi mặt, và ít tự do về mặt tinh thần hơn tuyệt đại đa số nhân loại? Không phải vì “Chung quy là tại vua Hùng. Sinh ra một lũ vừa khùng vừa điên”. 1000 năm trước, chúng ta đã áp dụng cách tuyển chọn người tài lãnh đạo đất nước qua con đường học vấn, đã có trường Quốc tử giám, trong khi ở phương Tây cùng thời gian, các vua chúa, quý tộc đều thất học. Nhưng thôi, không nói chuyện quá khứ vì lịch sử nhân loại luôn thăng trầm, những trung tâm văn minh nhân loại như Ấn Độ, Ba Tư hay Ai Cập ngày nay đều là những quốc gia kém phát triển trong khi con cháu bọn người ăn lông ở lỗ hồi cổ đại ở châu Âu giờ lại chiếm hầu hết tài sản vật chất và tinh thần của nhân loại.

Gần hơn, 60 năm trước, 80% nhân loại cũng nghèo khổ, bần cùng, dốt nát như chúng ta. Nhưng trong 60 năm vừa qua đó, hầu hết trong số 80% trên đều đã vượt chúng ta và Việt Nam rớt lại trên con tàu phát triển, trong khi vẫn ảo tưởng rằng mình là lá cờ đầu của phong trào giải phóng dân tộc, của tiến bộ xã hội và dân chủ, của tư tưởng vô địch không thể nào sai. Nghịch lý thay, chính cái lúc chúng ta tưởng mình đang ở “đỉnh cao muôn trượng”, ở đỉnh cao của trí tuệ loài người ấy, thực ra chúng ta lại đang ở dưới đáy và đang tụt xuống ngày càng sâu xuống vực. Để rồi 50 sau, tới cuối thế kỷ 20 mới ngỡ ngàng nhận ra mình đang về bét, nằm trong số 10% nhân loại nghèo khổ nhất, trong số 5% nhân loại mất tự do nhất. 50 năm cũng là 2 thế hệ, và còn ít hơn tuổi thọ trung bình của một người. Cũng trong hai thế hệ ấy, người Hàn Quốc, người Đài Loan đã kịp leo lên tới gần đỉnh trong lúc chúng ta rơi xuống đáy.

Đại hội Đảng lần thứ mấy có đặt ra mục tiêu năm 2020 đưa Việt Nam thành một nước công nghiệp. Tôi không rõ định nghĩa nước công nghiệp theo tinh thần Văn kiện Đại hội Đảng như thế nào nhưng điều đó không quan trọng. Ngay hiện nay, tỷ lệ đóng góp trong GDP của công nghiệp và dịch vụ đều lớn hơn của nông nghiệp. Rất có thể năm 2020, tỷ lệ lao động trong ngành nông nghiệp sẽ thấp hơn trong công nghiệp và dịch vụ. Nhưng điều đó không giúp Việt Nam trở thành một nước công nghiệp thực sự, như Hàn Quốc đã làm và đạt được.

Điều quan trọng hơn là làm sao để Việt Nam không nằm trong số 10% hay 20% kém cỏi nhất của loài người, và vươn lên thành một nước trung bình. Đó cũng là làm sao để một công dân Việt Nam thực sự trở thành một công dân trung bình của thế giới. Hiện nay, chúng ta đang là những công dân hạng bét của thế giới. Và nếu như có ai đó trong chúng ta cảm thấy nhục nhã vì mình là công dân hạng bét của thế giới thì nỗi nhục nhã đó hoàn toàn có thể hiểu được. Nếu bạn là học sinh đội sổ trong lớp, bạn có thể cảm thấy nhục nhã hay xấu hổ, hay bình thường, thản nhiên, hay thậm chí còn vui vẻ sung sướng và tự hào. Cảm giác đó là quyền ở bạn, tùy quan niệm của bạn, hệ thống giá trị của bạn và sự giáo dục của bạn. Tôi không phán xét.

Chỉ có điều hãy bỏ đi những mặc cảm và sự ganh tị, những phỉnh phờ hay ru ngủ lẫn nhau. Hãy nhận thức rằng chúng ta đang dưới đáy. Chúng ta đã mất 2 thế hệ để cùng kéo nhau tụt xuống đáy (và trong cùng thời gian ấy, khiến 4 triệu người đồng bào chết bất đắc kỳ tử). Liệu trong 2 thế hệ nữa, chúng ta có thể vươn ra khỏi đáy sâu ấy để ít nhất cũng trở thành những công dân trung bình của thế giới hay không?.

Hay một câu hỏi giản dị và dễ nhận thấy hơn, đến bao giờ chúng ta mới đuổi kịp Thái Lan, một nước trung bình trên gần như trên tất cả mọi khía cạnh (ngoại lệ có thể là về số lượng và chất lượng gái điếm) của thế giới. Thay vì thắc mắc tại sao nước Việt không giàu, tại sao Việt Nam chưa có giải Nobel…hãy thắc mắc tại sao Thái Lan lại giàu hơn Việt Nam, tại sao trường đại học Chulalongkorn bên Thái lại có số bài báo nghiên cứu trên tạp chí nghiên cứu quốc tế nhiều gấp hàng chục lần trường Đại học Khoa học Tự nhiên Hà Nội, tại sao người dân Thái có thể biểu tình phản đối chính phủ mà không bị đàn áp…

Tất nhiên, tôi hoàn toàn không cho rằng Thái Lan là một hình mẫu để Việt Nam học tập. Trái lại, tôi nghĩ nước này trong quá khứ có quá nhiều yếu kém trong cách điều hành đất nước cả về chính trị lẫn kinh tế, khiến cho những nước có khả năng điều hành tốt như Đài Loan, Hàn Quốc, hay Malaysia vượt xa. Nhưng một quốc gia trung bình của thế giới như Thái Lan mà còn vượt xa Việt Nam đến thế thì trình độ phát triển thực sự của chúng ta là gì? Hãy nhìn vào đấy.

Bao giờ trên báo chí Việt Nam, câu hỏi đặt ra không phải là tới khi nào Việt Nam có giải Nobel hay đến khi nào người đẹp Việt Nam trở thành hoa hậu thế giới mà là tại sao nông dân Thái sống tốt hơn nông dân Việt, trường đại học Thái Lan lại có nhiều nghiên cứu tốt hơn đại học Việt Nam, tại sao gái Việt Nam lại phải sang Thái làm điếm, sang Trung Quốc lấy chồng chứ không phải là gái Thái sang Việt Nam làm điếm, gái Trung Quốc sang Việt Nam lấy chồng…Lúc đó thì mới gọi là biết nhìn vào mình hơn.

10 năm nữa, liệu có gái Tàu nào sang Nghệ An lấy chồng?

Linh Blog

Thứ Ba, 14 tháng 10, 2008

Nhìn lại cuộc di cư 1954-1955 (V)

Nguyễn Văn Lục



Tín Phiếu và vàng của đồng bào di cư vào Nam

Đây cũng là những chi tiết tài liệu khá lý thú. Đây là những số tiền mà Việt Cộng đã tịch thu của đồng bào cũng như số tiền tín phiếu Hồ Chí Minh tổng cộng là: 2.533.257.860 đồng. Số tiền mà Việt Minh đã nuốt không của đồng bào liên khu V khi di cư vào Nam tại các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định.

Như trường hợp đòi đất ở Thái Hà hiện nay, bao giờ đến lượt chúng ta vác đơn ra tòa án quốc tế để kiện đồng loạt về sự chiếm hữu tài sản đất đai của người di tản và nhất là tài sản của các giáo hội như trường học, nhà thương, các cơ sở xã hội sau 1975? (Trích Hồ Đắc Huân, 6 năm hoạt động của chính phủ VNCH , trang 257)

Tiếp theo là vô số thư phản kháng gửi Ủy Hội về vấn đề phá rối miền Nam (trường hợp Việt Minh ám sát đại tá Hoàng Thụy Nam, đại diện chính phủ VNCH bên cạnh Ủy Hội), phá hoại đường xá, cầu cống, đường sắt và các hồ sơ tư pháp của hai tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định.

Phái đoàn bên cạnh Ủy Hội của VN cũng cho xuất bản một cuốn Bạch thư bằng tiếng Pháp, sau dịch ra tiếng Anh, năm 1959 (trích Hồ Đắc Huân với cuốn 6 năm hoạt động của chính phủ VNCH) để kết án cộng sản vi phạm Hiệp định Geneva.


Những ngày cuối cùng ở các trại tạm cư Hải Phòng

Xin nhấn mạnh một chi tiết là việc rút quân không đồng loạt là 300 ngày, nhưng được định riêng cho từng khu vực với các thời hạn khác nhau. Nhất là trong việc di chuyển quân đội Pháp. Quân đội Liên Hiệp Pháp phải rút khỏi:
– Khu Hà Nội : 80 ngày
– Khu Hải Dương : 100 ngày
– Khu Hải Phòng : 300 ngày

Rồi thì cái thời gian hết hạn nó cũng sẽ đến.

Nhưng ngày 12/10 cũng đánh dấu giai đoạn đầu của cuộc di cư đã chấm dứt và đã thành công với hơn 200.000 đã được đưa vào miền Nam. Đây cũng là lúc mọi người chờ xem Việt Minh, kẻ mới tới, đối xử ra sao với người dân Hà Nội? Nhiều người hy vọng rằng sẽ được đối xử tử tế?

Dĩ nhiên còn lại 200 ngày của Hải Phòng để người dân nhận biết vàng thực hay vàng giả. Vì thế, không ít người đã trì hoãn lại việc ra đi vào miền Nam. Cộng thêm tết nhất gần tới, dân quê thì muốn thu gặt cho xong... Bấy nhiêu lý do để người di cư sống chờ đợi. Wait and see.

Dưới đây, xin ghi lại chứng từ của bác sĩ Dooley, một trong những người Mỹ cuối cùng còn ở lại miền Bắc, Hải Phòng trước thời hạn tiếp thu. Bác sĩ Dooley (1927-1961) làm việc trên tầu USS Montague, sau ông tình nguyện làm việc cho các trại tạm cư tại Hải Phòng, ông được đại tá tình báo Edward G. Landsdale tin dùng. Sau 1955, ông tình nguyện sang Lào mở chẩn y viện rồi bị bệnh ung thư, ông chết rất sớm. Có những vận động phong thánh cho ông, nhưng không có kết quả, ông bị tai tiếng vì đồng tình luyến ái.

Sau này, TT Kennedy, nước Mỹ coi ông như một biểu tượng cho giới trẻ Mỹ.

Nguyên văn lời tưởng lệ Thủ tướng Diệm đọc tại phòng họp Nội các trước Bs Tom Dooley và quan khách (May 12, 1955 - Sau này Đại tá E. Landale cho Dooley hay nguyên văn bản tưởng lệ do chính Landale đánh trên bàn máy của mình.
Nguồn: Dr. America: The Lives of Thomas A. Dooley, 1927-1961, (trang 60), James T. Fisher
Nhưng đối với người Việt thì coi ông tượng trưng cho lòng nhân đạo và lòng bác ái.

Cuộc di cư này đậm nét với biểu tượng hình ảnh bác sĩ Dooley. Người Việt di cư còn rất xa lạ với người Mỹ. Nhưng qua bác sĩ Dooley như một thứ đại sứ tinh thần, người Việt di cư nhìn người Mỹ với đôi mắt thiện cảm và lòng biết ơn.

Không mấy người Việt di cư mà lại không một lần nghe về vị Bác sĩ này. Ông đã sát cánh bên cạnh người di cư từ lúc đầu đến lúc cuối, nhờ đó ông báo cáo những khó khăn đủ loại mà người di cư gặp phải trong lúc tạm thời ở các trại tiếp cư. Ông cũng là một trong những người Mỹ cuối cùng ở lại để thu dọn các trại tiếp cư trước khi ra Đồ Sơn và từ đó lên tầu vào Miền Nam. Bác sĩ Dooley đã ghi lại hồi ức cái ngày cuối cùng đáng ghi nhớ ở Hải Phòng như sau:
“It was relatively quiet during the transition. The Navy Base close to day, the piers are gone, the building are emptied. There is nothing left in my warehouse there; all have been transferred to the ship.” (Trích OPTF, trang 204)
“Trong lúc chuyển tiếp thì tương đối yên ổn. Căn cứ Hải quân hôm nay đóng cửa, các bến tầu đã mất dạng và tòa nhà thì trống không. Chẳng còn thứ gì trong kho hàng của tôi ở đó cả, tất cả đã được chuyển lên tầu rồi”.

Điều này cần được nhấn mạnh thêm, vì phần đông người di cư đã không biết rằng, trong cuộc di cư người này, cả người Mỹ và người Pháp đều không muốn để lại bất cứ tài sản vật chất nào xét ra có lợi cho cộng sản. Ngoài 300.000 ngàn tấn trang thiết bị quân sự trù liệu được chở vào Nam. Phần còn lại gồm phần lớn các cơ sở kỹ nghệ nhẹ được người Pháp và chính quyền Quốc gia giúp đỡ để chuyên chở vào miền Nam. Người ta trù liệu đến việc tháo gỡ nhà máy cement Hải Phòng, mỗi năm sản xuất khoảng 400.000 tấn. Mỏ than Hòn Gai chừng 2 triệu tấn/năm, nhà máy dệt Nam Định v.v... Cho dù, dự định tháo gỡ toàn bộ trang thiết bị không thể thực hiện đồng bộ thì công việc tháo gỡ từng phần cũng gây trở ngại không ít cho chính quyền Việt Minh sau này.

Ngày 9 tháng 5, chuyển giao quyền hành cảng Hải Phòng cho Việt Minh mà không có điều gì trục trặc xảy ra kết thúc hơn một năm trời việc tiếp đón và chở người di cư miền Bắc vào miền Nam.

Chiếc tầu chiến cuối cùng của Mỹ rời Đồ Sơn là chiếc General Brewster mang theo toàn bộ lực lượng an ninh của Pháp còn ở lại cũng như tất cả các trang thiết bị của họ. Chưa kể hơn 500 người di cư cuối cùng trong đó có người cha và đứa con gái ra di để lại vợ, vì bà này không muốn đi khỏi Hà Nội.


Giai đoạn di cư: Operation Passage to Freedom.

Để di chuyển hơn 800.000 người di cư từ miền Bắc vào miền Nam, một mình người Pháp và chính quyền quốc gia không thể nào cáng đáng nổi.

Thủ tướng Ngô Đình Diệm đã kêu gọi sự giúp đỡ của người Mỹ vào công việc này. Tổng thống Eisenhower hưởng ứng lời kêu gọi của thủ tướng Diệm đã ra lệnh cho Chủ Lực (Task Force – DCVOnline) 90 của đệ thất hạm đội Mỹ đến Việt Nam giúp đỡ việc chuyên chở người di cư. Đoàn này đã trở thành những chiến sĩ hòa bình giúp đỡ dân chúng miền Bắc đi tìm tự do. (Trích Cuộc Di Cư Lịch Sử, trang116)

Kể từ ngày 8 tháng 8 cho đến 20/ 8/1954, chương trình của quân đội Pháp là di chuyển bằng máy bay vào khoảng 1500 người mỗi ngày với tổng số 15.400 người. Cho đến tháng 5 năm sau, máy bay Pháp đã di chuyển vào Nam được 172.783 thường dân Việt Nam, 6187 quân đội quốc gia và 25.459 quân đội Pháp. Cộng chung, máy bay của Pháp đã chuyên chở đươc 213.635 người di cư, 11.206 thường dân Pháp.

Tầu của Pháp cũng di chuyển được tổng cộng là 234.975 người di cư. Nếu cộng chung hai số lượng người di cư vào miền Nam bằng máy bay và bằng thuyền thì người Pháp đã chở được gần nửa triệu người di cư vào miền Nam, con số chính xác là 448.610 người. (Trích OPTF, trang 205)

Số còn lại hơn 300.000 người di cư là do người Mỹ đảm trách theo kế hoạch có tên Operation Passage to Freedom.

Những con số vừa nêu trên so với tài liệu chính thức trong Cuộc Di Cư lịch sử của Phủ Tổng Ủy di cư cũng không mấy khác khác biệt.

Theo tài liệu trong Cuộc Di Cư lịch sử , máy bay Pháp chở được 4280 chuyến, tổng cộng 213.635 người. Bên cạnh máy bay của Pháp còn có các hãng máy bay tư giúp sức như Air France, Air-Việt Nam, Autrex, Aigle-Azur, Air-Outremer, Cat, Cosara và U.A.T. Đó là cây cầu hàng không lớn nhất nối liền giữa Hà Nội, Hải Phòng- Sài Gòn, dài 1174 cây số.

Trong lòng mỗi chiếc máy bay đã được tháo gỡ hết các ghế và dụng cụ để dành thêm chỗ rộng trở thêm được nhiều người tỵ nạn.

Tàu thủy Pháp chở được 338 chuyến, tàu Mỹ 109 chuyến, tàu Anh 2 chuyến, tàu Trung Hoa, 2 chuyến, tàu Ba Lan, 4 chuyến, tổng cộng là 555.037 người.

Và một số người đi bằng phương tiện riêng là 102.861 người.

Cộng chung tất cả là 871.5533. Một con số được coi là khá chính xác. (Trích Cuộc Di Cư lịch sử , trang 120)

Trước khi thực hiện kế hoạch này, người Mỹ đã chuẩn bị kỹ càng mọi chuyện như thăm dò cảng đỗ cho tầu chạy dài từ Hải Phòng ra đến Đồ Sơn, phòng ngừa sự phá hoại của Việt Minh đối với các tầu chiến đậu ở cảng và ngoài khơi Hải Phòng. Chuẩn bị đủ các loại tầu cho việc di chuyển này: đủ loại tầu tiếp viện, đủ loại tầu đổ bộ, đủ loại tầu chở xe tăng, thiết giáp, tầu sửa chữa, tầu cao tốc, tầu tấn công, tầu dầu, tầu bệnh viện vv..Tất cả là 113 chiếc.113 chiếc này đã chuyển người từ Bắc vào Nam, có chiếc đã 3 hoặc 4 lần di chuyển từ Bắc vào Nam. Chẳng hạn các tầu há mồm LST đã để ra 651 ngày hải trình trên biển. Loại tầu LCU để ra 579 ngày. Loại tầu APA 264 ngày. Tổng cộng toàn thể các tầu Mỹ đã để ra 2181 ngày hải trình để chuyên chở người di cư từ Bắc vào Nam. (Trích OPTF, trang 139)

Đó là những con số khó có thể tưởng tượng ra nổi. Nó nói lên nhiều điều, trong đó báo hiệu kể từ nay, nước Mỹ sẽ còn dính dáng nhiều đến chính thể miền Nam còn non trẻ. Những tên tuổi như Eisenhower, Nixon, Kennedy, Johnson, Kissinger, Mc Namara sẽ gắn liền với những biến cố lớn nhỏ ở miền Nam.

Số phận dân miền Nam nay tùy thuộc họ. Lúc đầu họ đến với những hào quang, lòng kính phục, lúc họ đi chỉ còn là cay đắng và miệt thị.

Nhưng dù thế nào thì họ cũng đã đến.

Muốn chuyên chở được như thế, Hải quân Mỹ phải hủy bỏ tất cả các hải trình huấn luyện đã nằm trong kế hoạch với chính phủ Nam Hàn v.v...

Ngoài ra họ đã chuẩn bị 85 ngàn phao cứu sinh, life jackets, 85 ngàn chiếu, 700.000 đôi đũa, 17 ngàn sô đựng nước, 150 ngàn tấn gạo. Còn cần chuẩn bị đầy đủ xăng dầu, đồ khô, đồ đông lạnh, ly giấy cho mỗi chuyến hải trình.

Họ tổ chức bài bản lắm. Từng chi tiết một. Từng nhu cầu nhỏ cho người di cư theo cách sống của họ. Một cái kẹo cho trẻ nhỏ, nghe thì dễ, nào đã mấy người nghĩ ra được? Vì thế, trẻ con mới nhớ đời. Người lớn thì từ cái bàn chải đánh răng, kem đánh răng, chiếc khăn mặt mà rất nhiều người di cư xử dụng lần đầu tiên trong đời họ.

Phải nói là đâu ra đấy. Hơn Pháp nhiều. Không phải chỉ có tiền bạc mà còn là óc tổ chức, rất lô gích. Tỉ dụ, để cho tầu chiến của họ có bến đậu, Pháp chẳng giúp gì được cho họ. Họ làm đủ các thứ cần thiết để bảo đảm cho tầu của họ có thể cập bến an toàn suốt từ Hải Phòng ra đến Đồ Sơn. Trong vòng có mấy ngày phải xong.

Trên tầu, vấn đề vệ sinh cá nhân cho người di cư là tối cần thiết. Thủy thủ Mỹ đã “sáng chế ” những cầu tiêu dã chiến bằng các sô nhựa cắt đôi, rồi ghép ván lên trên để ngồi. Một chiếc tầu chở 2000 người cần có 50 chiếc cầu tiêu dã chiến như thế. Và còn phải chỉ dạy cách xử dụng cho đúng, vì có nhiều người tị nạn xử dụng các thùng cầu tiêu này để giặt giũ và tắm rửa cho trẻ con.

Ê, ráng mà quất banh qua thành tầu nha. Chú mày (ở truồng) thì không cách gì mà “chùi” được
Nguồn: National Geographic, số tháng 6 1955
Họ đáng hãnh diện về những điều họ đã làm. Mà những việc làm này do những thủy thủ tầm thường trên tầu tự nghĩ ra. Không ai dạy họ. Cũng không ai ra lệnh cho họ phải làm. Không ai bắt họ phải dạy cho một đứa trẻ lên 5 cách cầm cây gậy khúc côn cầu. Không ai dặn dò một thủy thủ da đen cạo sơn trên thành tầu với một chú thợ phụ chưa quá 8 tuổi. Cả hai làm việc một cách tự nhiên và thoải mái.

Những cảnh như thế đẹp lắm. Rất là người.

Họ lo cho bữa ăn người tị nạn một cách gọn và chu đáo, hợp khẩu vị được chừng nào hay chừng đó.

Họ tỏ ra rất nhân bản, đầy tình người. Còn người tị nạn tỏ ra một quyết tâm không gì lay chuyển được. Hai yếu tố tinh thần đó đã làm nên chuyện lớn: chuyện người di cư 54-55. Đó cũng là chuyện người đàn ông đang kéo một chiếc xe bò, mặc quần xà lỏn, đôi chân trần gò lưng kéo xe. Đằng sau chỉ thấy loáng thoáng một bóng dáng phụ nữ đẩy xe và ba bốn bàn chân khác nhìn được dưới gậm xe.

Tôi nhìn và thấy ở đấy sức mạnh của người di cư 54-55.

Như lời nhận xét của tác giả OPTF, trang 163:
The stories of the Vienamese provide insight into not only the obstacles they had to face from the Viet Minh but also the strenght of conviction that helped them go on this passage to freedom. Mr Tran Van Tru, a fifty-six-year-old catholic farmer from Hải Hậu district, Bui Chu province, told what the eight people in his family went through to arrive in Hai Phong: We abandoned our house, our garden, our rice field to flee South. We arrived November 2, 1954, without having been able to bring any thing with us”.

“Nội dung câu chuyện của những người dân Việt cho thấy không chỉ vì những chướng ngại mà họ phải đối diện với bọn Việt Minh, mà còn là niềm xác tín vững mạnh đã giúp cho họ tiếp tục trên con đường đi tìm tự do. Ông Trần Văn Trụ, một nông dân công giáo, 56 tuổi, đến từ huyện Hải Hậu, tỉnh Bùi Chu, kể lại những gì mà 8 người trong gia đình ông đã trải qua để tới Hải Phòng: Chúng tôi đã bỏ lại tất cả nhà cửa, vuờn tược, ruộng nương để chạy trốn vào trong Nam. Ngày 2 tháng 11, 1954, chúng tôi đến nơi mà không mang theo được một thứ gì'.”

Rất tiếc là ngày nay, ít khi chúng ta còn được nhìn thấy những đôi mắt quyết tâm như thế.

Dân quê VN có thể không sử dụng thuần thục cầu tiêu dã chiến nhưng làm quen rất nahnh với giường treo 4 tần kiểu HQ Mỹ
Nguồn: National Geographic, số tháng 6 1955
Trên mỗi tầu, Hải quân Mỹ yêu cầu người Pháp cung cấp thông dịch viên, nhưng không có đủ. Một số người di cư có học và nhất là một số linh mục đã giúp một tay đắc lực trong truyện này. Vai trò của mấy vị linh mục trên mỗi chuyến tầu như trung gian để giải quyết những khó khăn cũng như khi cần giải thích hoặc quy luật nội bộ cần phải được tôn trọng và tuân theo trên tầu.

Người viết nghĩ rằng, người Mỹ đã tổ chức, kế hoạch tỉ mỉ, quy mô, dự liệu tất cả mọi nhu cầu cần thiết cho người tỵ nạn khi bước lên tầu cho đến lúc rời khỏi tầu. Những kỷ niệm đẹp, nhiều kỷ niệm khó quên trên các chuyến tầu Mỹ chở người di cư, nay nhiều người không thể không nhớ lại.

Có những thủy thủ đoàn đã quyên góp tiền lương và tặng lại cho người di cư đi trên các chuyến tầu của họ.

Nhiều người sẽ không quên được những giường nằm cá nhân treo lủng lẳng lên bằng những giây xích sắt gồm bốn tầng đu đưa trên không. Những gói quà nho nhỏ “welcome kits” do thủy thủ đoàn trao tặng mỗi người tị nạn trong đó có thuốc đánh răng, bánh xà bông, khăn mặt, kẹo và hộp sữa nhỏ có ghi: From the people of America to the people of Viet Nam – a gift. (Tóm lược bài báo của Gertrude Samuels, Passage to Freedom in Việt Nam, National Geographic, số tháng 6-1955, trang 15)

Khi đặt chân xuống cảng Sài Gòn, người ta nhận thấy hình ảnh những người di cư, phần đông người nào cũng đội một cái nón, áo vải nâu đậm khác với mầu đen của người Sài gòn. Người Bắc áo nâu, người Nam áo đen. Đàn bà chít khăn, rẽ ngôi giữa, răng nhuộm đen, đi chân đất, dáng mệt mỏi tay xách nách mang hoặc bồng con dại, nét mặt ngơ ngác, ngại ngùng bối rối, câm lặng khi bước chân đến một nơi xa lạ như đất Sài Gòn. Một Sài Gòn xa hoa, thanh lịch, xe cộ chạy như mắc cửi đến lóa mắt, nhất là những chiếc xe gắn máy lao đi như một mũi tên nhả khói mù mịt cộng với tiếng còi xe inh ỏi, tiếng nói lạ tai.

Xin dẫn một chứng từ về tâm trạng một người di cư khi đặt chân lên bến cảng Sài Gòn đã được đăng trên báo Tự Lập như sau:
“Hải Phòng, tờ mờ sáng, trên các ngả đường, đông đảo đồng bào đã lũ lượt chen chúc để lên xe chở đến bến tầu thủy vào Nam. Tưng bừng và náo nhiệt... Tất cả nói lên sức sống rồi rào và tinh thần bất khuất của quần chúng dưới ách độc tài cộng sản... Hành lý cồng kềnh nặng nề của đồng bào đã có đoàn cán bộ đeo thẻ trắng ở ngực tận tâm khuân vác giúp xuống tầu. Chúng tôi đã nhanh nhẹn trèo lên boong tràn ngập niềm tin. Đối chiếu luận điệu tuyên truyền của VM với những điều tai nghe mắt thấy ở đây, người ta đều thông cảm nhau qua nụ cười mỉa mai có ý khinh bỉ. Trông kìa, một thủy thủ ngoại quốc già đang học gánh, ông ta gù cả lưng, rụt cả cổ, hai tay trước mặt cố đè cái đầu đòn gánh cho khỏi bị võng mà vẫn nặng quá, loạng choạng không sao bước được. Trên tầu, những tràng cười nổi lên.

Tầu nhổ neo và dần dần ra biển. Tầu Marine Serpent, một chiếc tầu Mỹ lớn có thể chở được 6.000 người... Chúng tôi tha hồ ngắm cảnh nước non, lòng tôi thư thái, tâm hồn tôi phơi phới. Phải chăng, tôi vừa thoát khỏi một chốn tù đầy mà sống lại ở giữa cõi đời? Gặp nhau đây là xóm làng họ hàng, là bà con thân thích cả. Dưới trời tự do, sức lực con người sẽ đem ra xây dựng cho đời mình cơm no áo ấm, khỏi phải “ký cóp cho cọp nó sơi”, kẻ làm, sống khổ, người ngồi ăn ngon. Sự tổ chức trong tầu chu đáo và khoa học lắm. Người ta được lĩnh cơm ngày hai bữa, rất đầy đủ, món ăn được săn sóc kỹ càng... Mấy vị bác sỹ người Mỹ thân hành đi buồng này đến buồng khác, dừng lại trước giường nằm của từng người đề phân phát thuốc chữa say sóng.

Tầu cập bến Sài Gòn một sớm mai trời đẹp. Bình minh lên như đời sống đang vươn lên.. ánh sáng rực rỡ của mặt trời phương Nam cũng là ánh sáng tự do của đồng bào di cư Bắc Việt hàng khao khát.. Đồng bào chen chúc lên đứng chật boong, lặng nhìn “cảnh ngựa xe như nước của hòn ngọc Viễn Đông”. Lòng người bâng khuâng, hồi hộp trước sự tiếp đón dản dị nhưng cảm động của chính phủ Quốc Gia...

Riêng gia đình ông Phạm Hùng Sơn, chủ gia đình thứ 100.000 người di cư do tầu thủy Mỹ chở vào... Hải quân Mỹ đã dành riêng chiến hạm G.C 12 để chở mình gia đình ông vào Nam. Và chính Thủy sư đô đốc Hải quân Mỹ cũng có mặt trên chiến hạm này để săn sóc gia đình ông Phạm Hùng Sơn” (trích Cuộc Di cư lịch sử, trang 122-123)

Và chỉ đến cuối năm 1954, nghĩa là sau 4 tháng hoạt động, các chiến hạm Mỹ đã chuyên chở được 175.227 thường dân và 14.089 binh sĩ từ Bắc vào Nam Cộng thêm 6388 xe cộ và 50.238 tấn trang thiết bị. Nghĩa là hơn một phần ba trên tổng số người di cư do Hải quân Mỹ đảm nhận. (Trích OPTF, trang 193)

(Còn tiếp))

Thứ Hai, 13 tháng 10, 2008

Entry for October 13, 2008

Cái này được cho là chỉ đạo của Ban Tuyên giáo TW với báo chí về vụ xử hai nhà báo, đăng trên blog Tắc Kè. Không rõ tính xác thực của văn bản này đến mức nào? Tạm phân tích vài điểm trên cơ sở giả thiết "chỉ đạo" này là có thực.

"Chỉ đạo" đầy mâu thuẫn, câu nọ dẫm chân lên câu kia, vừa yêu cầu bao chí "dân chủ, công khai, công bằng, ...đưa tin chính xác, khách quan" nhưng lại cấm không được bình luận, không được đưa tin sâu, không được đưa tin đậm, không được phân tích... Và như thế được Ban Tuyên giáo TW gọi là dân chủ và công bằng, chính xác và khách quan. Quả là một trò cười.

Điều 5 cho rằng các báo "
phải xem đây như một phiên toà bình thường, như bất cứ phiên toà nào khác." Nhưng nếu là một phiên tòa bình thường, tại sao Ban Tuyên giáo phải "chỉ đạo" TBT các báo, phải đưa ra những giới hạn như cấm đưa tin sâu, không được gọi là cán bộ công an hay nhà báo mà phải gọi là "nguyên cán bộ công an" và "nguyên nhà báo"...Cái đạo đức "pháp trị" này là đạo đức bắt người ta coi những việc bất bình thường là bình thường dù ai cũng hiểu rằng nó bất thường. Những từ như dân chủ, công bằng, công khai, chính xác, khách quan được dùng trơn tru, không nháy mắt, như một sự nhạo báng với các giá trị đạo đức, luật pháp và quyền tự do con người, và không chỉ thế, còn là sự nhạo báng đối với ngôn ngữ và những giá trị đạo đức xã hội mà người ta vẫn gắn với những từ ngữ đó. Nếu anh chỉ vào một thằng (mà ai cũng biết là) ăn cắp và gọi đó là người anh hùng thì đó là sự phỉ báng đạo đức xã hội. Cũng tương tự nếu anh chỉ vào nhà tù và gọi đó là tự do.

Điều 5 cũng trơ tráo. Nếu coi đây là phiên tòa bình thường như bất cứ phiên tòa khác thì từ đó có thể suy diễn rằng trong tất cả các phiên tòa "bình thường" khác, các báo cũng bị cấm "bình luận" "suy diễn" và chỉ được phép đưa tin. Vậy nền báo chí XHCN còn là cái gì, ngoài cái loa tuyên truyền lỗ mãng?

Ngay điều 1 cũng không hợp lý. Hai sĩ quan công an chưa bị tước quân tịch và đuổi khỏi ngành. Hai nhà báo chưa bị các tòa báo họ làm đuổi việc, cũng chưa bị luật nào cấm viết báo, do đó họ vẫn là nhà báo cho dù có là nhà báo không thẻ (bởi cái thẻ nhà báo không phải là thứ có thể biến một người thành nhà báo, và việc tước thẻ cũng không có nghĩa là người bị tước thẻ không còn là nhà báo). Tại sao lại bắt các báo phải gọi những người này là nguyên công an và nguyên nhà báo?


14-15/10: Xử 2 nhà báo Hải-Chiến, tướng Quắc, tá Huynh về vụ đưa tin PMU18


""Ban Tuyên giáo TW đã có họp với các Tổng biên tập các báo trước khi phiên tòa diễn ra để chỉ đạo cách thức và nội dung đưa tin:

1. Khi tường thuật vụ xử, báo chí phải viết rằng “2 sĩ quan công an là "nguyên cán bộ công an," và hai nhà báo là "nguyên nhà báo”
2. Việc thay đổi tội danh so với lúc khởi tố phải được giải thích để công chúng biết, rằng đây “không phải là đặc quyền đặc lợi đối với công an và nhà báo” mà là sự “xem xét các cống hiến của họ.”
3. Khi viết, báo chí phải dân chủ, công khai, công bằng, đúng người, đúng việc, đưa tin chính xác, khách quan, nhưng không đưa tin giật gân, câu khách, không được bình luận và không được suy diễn. Không được đưa tin đi sâu về các tình tiết xét xử hay quá trình tranh tụng, không được đưa tin đậm quá mức cần thiết

4. Tổng Biên Tập các báo phải dự phòng các vấn đề phức tạp có thể diễn ra quanh phiên toà.
5. Phải xem đây như một phiên toà bình thường, như bất cứ phiên toà nào khác.
6. Không nên để bạn đọc hiểu là những bị cáo này được hưởng đặc quyền đặc lợi."

Nguồn: Linh blog

Thứ Sáu, 10 tháng 10, 2008

Truyền Thông Vì Công Lý

Sự kiện giáo dân Thái Hà, đòi lại đất hiện đang là vấn đề gây nhiều tranh cãi trên dư luận. Thực ra chuyện đòi lại mảnh đất đã phát xuất từ 12 năm trước đây, khi giáo dân Thái Hà đứng trước nguy cơ là mảnh đất của họ bị chiếm đoạt phi pháp. Lúc ấy LM Vũ Ngọc Bích đã gửi đơn khiếu nại, những mong vùng đất có chủ quyền hợp pháp ấy sẽ được chính quyền trả lại. Nhưng đơn thì có đi, mà hồi âm chẳng có, trong khi chủ nhân hợp pháp tức nhà xứ Thái Hà thiếu đất trầm trọng cho những nhu cầu mục vụ.

Gần đây nhất, miếng đất còn đang trong tình trạng chờ giải quyết trả lại thì lại bị xẻ thịt để chia chác cho các tư nhân. Chẳng đặng đừng, những gíao dân thấp cổ bé họng ấy phải dùng phương sách mà họ có là những lời cầu nguyện. Lời cầu nguyện vì công lý ấy đã liên kết thêm nhiều giáo dân các vùng lân cận và đã trở thành cao trào khiến chính quyền lo sợ. Chính quyền đã phải dùng hạ sách là truyền thông một chiều và bạo lực. Nếu trước đây vài năm, hai phương sách ấy là thượng sách rất hữu dụng để trấn áp dư luận thì nay đã bộc lộ điểm yếu chết người. Đơn giản vì thời đại đã thay đổi, thời đại của hội nhập, của thông tin toàn cầu. Nhân dân đã biết tìm đến nguồn thông tin trung thực, và giáo dân Thái Hà không còn đơn độc trên hành trình tìm công lý.

Truyền thông một chiều của phía chính quyền chỉ còn là bàn tay giơ lên che ánh sáng mặt trời. Chính vì lý do ấy, vài tờ báo, vài đài truyền hình của Đảng dù ra sức vu khống, mạ lỵ, bóp méo sự thật, kích động chia rẽ tôn giáo - nhân dân và vu cáo rằng "có thế lực thù địch hậu thuẫn" để chuẩn bị cho dùi cui điện, nhà tù, hơi cay trấn áp giáo dân thì giáo dân chẳng còn sợ hãi, trái lại còn tạo thêm nhiều căm phẫn, thêm nhiều thông tin vạch trần sự giả dối tàn ác đó. Một sự kiện ngay giữa thanh thiên bạch nhật, ngay giữa thủ đô kéo theo nhiều ngàn người tham dự và chứng kiến thì truyền thông sai sự thật chỉ là tự giết mình. Nếu để ý người ta sẽ thấy những tờ báo lớn, có chút uy tín và lượng độc giả đông đảo như Tuổi Trẻ, Thanh Niên... dường như ý thức được điểm tử ấy nên đã lựa chọn cách an toàn là im lặng hoặc chỉ đưa tin chiếu lệ sơ sài.

Còn các cơ quan thông tấn, truyền thông uy tín của thế giới đã nhanh chóng vào cuộc. Những thông tin trung thực chính xác đã liên tục được cập nhật và truyền tải đi khắp thế giới cách tức thời. BBC đã dành hẳn một chuyên mục cho sự kiện Thái Hà, rồi AFP, Reuter, RFI, VOA, RFA, Thông Tấn xã Công giáo, Asia News, Spero News đều đã vào cuộc, đó là chưa kể đến rất nhiều báo giấy, báo điện tử quốc tế; nhiều website, blogs, forum, email loan tải thông tin khiến cho sự kiện càng lúc càng nóng bỏng. Hình ảnh những bà cụ bị dùi cui đập tóe máu mặt, những gíao dân tay không tấc sắt bị đánh túi bụi, bị xịt hơi cay, bị còng tay lôi đi được phát tán rộng rãi khắp nơi. Bên cạnh đó là lời kêu gọi hiệp thông trong toàn thể giáo hội Việt Nam, Hải Ngoại... Từ thư Mục tử của Hồng Y Phạm Minh Mẫn, TGM Ngô Quang Kiệt, của Linh mục đoàn Hà Nội, hình ảnh hiệp thông cầu nguyện của GM Thái Bình, GM Hải Phòng, cộng đoàn các tu sĩ Công giáo, các giáo dân khắp nơi nô nức đến tham dự và chia sẻ đã khiến cho truyền thông giả trá bị vạch mặt. LM Thiện Cẩm, trong bài viết về Thái Hà đăng trên báo Công giáo và Dân tộc (cơ quan của UB Đoàn kết Công giáo) có kể rằng, ông được đài Truyền hình và báo Sài gòn Giải phóng mời trả lời phỏng vấn nhưng ông từ chối vì ông không có đủ thông tin, họ lại đưa băng hình mà họ quay được cho ông, ông vẫn từ chối vì rõ ràng đó chỉ là thông tin một chiều. LM Thiện Cẩm đã không bị mắc lừa vì Giáo xứ Thái Hà không có báo chí, không có đài truyền hình, họ có cải chính thông tin sai sự thật thì không báo nào, đài nào đăng. Trang điện tử của BBC có bài "Bút chiến quanh vụ Thái Hà", thực ra cách dùng từ đó chưa thật chính xác, vì lẽ cả hai bên phải có quyền đăng tải thông tin của mình trên cùng một diễn đàn với độc giả làm trọng tài. Đằng này báo chí, truyền thông là công cụ của Đảng thì phải hùa theo, làm theo chỉ đạo của Đảng thì "bút chiến" thế nào được. Có chăng là những hình ảnh do các giáo dân Thái Hà tự chụp ảnh được, tự quay phim được để truyền tải lên những trang blog cá nhân hoặc cùng lắm đưa bài viết, hình ảnh ấy lên trang nhà của Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam để tự minh chứng. Cái cách tự minh chứng bất đắc dĩ ấy vô tình trở thành một "vũ khí" hiệu quả, trở thành một trào lưu dân báo rộng rãi. Người dân đã tháo cởi cái rọ bịt miệng để cất lên tiếng nói vì sự thật, cũng vì sứ mạng loan báo sự thật đồng thời là một sức mạnh khiến người dân chẳng còn khiếp sợ bạo lực. Những lời vu cáo về "thế lực thù địch", về kích động... trở thành trâng tráo, vô duyên, không ai tin được.

Tờ Wall Street Journal, một tờ báo uy tín hàng đầu của Hoa Kỳ đã nhận định những sự kiện vừa qua, nhất là vụ giáo dân Công giáo đòi đất ở Thái Hà sẽ khiến phần về Việt Nam "không được đánh giá tích cực" và "các tiến bộ tôn giáo ở Việt Nam đã bị khựng lại" từ đó "có lý do" để đưa Việt Nam trở lại vào danh sách những nước phải được "quan tâm đặc biệt về tự do tôn giáo" (CPC). Ngoài các cơ quan truyền thông Công giáo quốc tế, các báo trong vùng ở Thái Lan, Đài Loan cũng trích nguồn thông tấn về vụ hôm 29/08 khi có giáo dân cáo buộc công an "đánh dân".

Như vậy, cách hành xử của chính quyền nên thay đổi, dù mảnh đất ấy có giá trị hàng triệu đô la, dù đã lỡ chia chác thì cũng nên trả lại cho chủ nhân hợp pháp là cộng đồng Thái Hà vì dù sao đất ấy cũng của dân tộc Việt, mưu ích cho người Việt. Đừng đẩy giáo dân hiền lành thành thế lực đối đầu nữa. Đừng nên chia rẽ dân tộc vì tư lợi của số ít người nào đó nữa. Cơ ngơi của tiền nhân để lại là núi sông, là hải đảo cần hợp sức dân tộc để gìn giữ trước sự xâm lấn của ngoại bang quan trọng hơn nhiều.

Lịch sử Công giáo đã ghi lại, cứ nơi nào máu người công chính đổ ra để minh chứng cho công lý thì nơi ấy sẽ trổ sinh muôn vàn chồi công chính mới. Liệu sự bất công có trấn áp được công lý mãi hay không. Câu hỏi tưởng đã có lời đáp.

Nhã Nam

Nhìn lại cuộc di cư 1954-1955 (III)

Số người tập kết ra Bắc

Theo phúc trình của Ba Lan, tàu Ba Lan đã chở 85 ngàn người ra Bắc so với con số 800 ngàn người vào Nam. Theo báo cáo “Chuyên chở bộ đội Việt Minh trên tầu Kilinski 1954-1955 (Nautologia 2001 n.1-2(136), trang 18-21) của thuyền trưởng tầu Jan Kilinski, ngày 07/04/1955 thì tổng cộng chỉ một mình chiếc tầu Ba Lan đã chở khoảng 85.000 người từ Nam ra Bắc, 3.500 tấn thiết bị quân sự và 250 tấn đạn dược ra Bắc. Con số 85.000 người do chỉ một chiếc tầu thôi, giả dụ mỗi lần chở được tối đa 5000 người, tàu JanKilinski phải mất bao nhiêu chuyến hải trình?

Chiếc chiến hạm Mỹ chở nhiều chuyến nhất và nhiều người nhất là tầu General House, đã chở được 50.000 người di cư vào miền Nam. Chiếc General House thuộc loại tầu đổ bộ T-AP, dùng để chuyên chở binh lính. Bình thường chở từ 1200-2000 binh sĩ. Chở quá tải là 3000 người. Trường hợp khẩn cấp có thể chở từ 5000-7000 người. (Trích OPTF, trang 213)

Theo Ramesh Thakur trong cuốn Peacemaking in Viet Nam, (The University of of Alberta Press,1984, trang 131) thì con số người từ Nam ra Bắc thật ít ỏi. Chỉ có 4269 người bỏ miền Nam ra miền Bắc. Trong khi đó Ronald B. Frankum, Jr. viết như sau:

Peacekeeping in Vietnam: Canada, India, Poland, and the International Commission by Ramesh Chandra Thakur
Nguồn: University of Alberta, 1984
“At the same time, personnel and equipment moved to the South, The French and Polish were involved in transporting those who wished to go to the North.The French had allocated approximately ten shịps for Viet Minh transportations and had estimated that sixteen thousand of the possible one hundred fifty thousand personnel had already completed the trip north.”

Cùng lúc, các nhân viên và các thiết bị được chuyển vào Nam, Pháp và Ba Lan đã để hết tâm trí vào việc chuyên chở những người muốn được đi ra Bắc. Nước Pháp đã phân phối cho Việt Minh độ 10 chiếc tầu để chuyên chở và ước lượng vào khoảng 16 ngàn người trên tổng số ước lượng có thể là 150.000 ngàn nhân viên đã hoàn tất chuyến đi ra Bắc rồi”. (Trích OPTF, trang 138)

Theo tài liệu trong cuốn Cuộc Di Cư Lịch Sử trang 244, thì chuyến bay đầu tiên chở người ra Bắc vào ngày 08/04/1955 và tổng cộng chỉ có 15 chuyến.

Có 1018 người được chở ra Bắc bằng phi cơ.

Và có 3340 được chở ra Bắc bằng tàu thủy của Pháp. Cộng chung là 4.358 người.

Tài liệu của Phủ Tổng Ủy Di cư rõ ràng là thiếu sót, vì không đề cập đến số lượng người được chở ra Bắc bằng tàu của Ba Lan như đã nêu trên. Vì thế con số hơn 4000 người được chở ra Bắc là không xác thực.

Tuy nhiên, có một sự thực không thể chối cãi là sau này có một số người tập kết đã bỏ trốn về miền Nam như trường hợp anh Trịnh Minh Cầm ở tỉnh Bình Định và đồng bạn. Nhật báo Cách Mạng Quốc Gia thời 1955 có bài viết tường thuật đầy đủ về trường hợp của anh Nguyễn Minh Cầm. Theo anh Cầm, đã có khoảng 300 người đã cùng trốn đi như thế với anh và họ đã vào được đến Quảng Bình, rồi từ Quảng Bình tới được bờ sông Bến Hải. Nhưng khi tới được bờ sông Bến Hải thì chỉ còn lại có 195 người, những người khác đã chết ở dọc đường. (Trích Cuộc Di Cư Lịch Sử, Phủ Tổng Ủy Di Cư, trang 250)

Trên những chuyến tầu chở ra Bắc của tầu Kilinski, Ba Lan, người viết có tấm hình bộ đội Bắc Việt chở ra Bắc cả một đàn voi vốn là phương tiện chuyên chở của bộ đội Bắc Việt ở Cao nguyên Trung phần.

Riêng một số người di cư được tầu Ba Lan “chở dùm” vào miền Nam thì không được cái may mắn như những người di cư được chở vào miền Nam trên các tàu Mỹ. Đó là trường hợp cuộc ra đi bất hạnh của một số đồng bào Ba Làng (Thanh Hóa) di cư vào Nam trên tầu Kilinski của Ba Lan. Và đây là lời kể lại của những con người bất hạnh đó:

“Chúng tôi bước lên tầu Ba Lan với tất cả hồi hộp và lo sợ vì chúng tôi vẫn có cảm tưởng bọn Việt Cộng sẽ đưa chúng tôi đi biệt tích một nơi nào khác, chứ không phải vào Nam. Chính vì sợ thế mà nhiều đồng bào chúng tôi không dám đi... Việt Minh chia chúng tôi làm 3 hạng, hạng “phản động” bị giam xuống đáy tầu, nóng như lò lửa. Hạng “lừng khừng”, hạng “tiến bộ” được đối xử khá hơn, bị gò ép như cá hộp, nghẹt thở và không phân biệt lúc nào là ngày và đêm. Ăn thì mỗi ngày được lưng bát cơm với một miếng thịt bò nhỏ xíu mà mặn không thể tưởng tượng... Một số đàn bà trẻ con vì nhịn đói, nhịn khát, nóng bức quá nên bị ngất đi...Thủy thủ Ba Lan trên tầu này không hề nhìn ngó đến chúng tôi.
(Trích Cuộc Di Cư Lịch Sử, Phủ Tổng Ủy Di Cư, trang 252)

Người Pháp cũng nhờ Hải quân Mỹ chở người tập kết ra Bắc. Vào ngày 15 tháng 8, Hải quân đô đốc Sabin đã từ chối yêu cầu của người Pháp chở 18.000 người tập kết ra miền Bắc. Và kể từ đó, Hải quân Mỹ được lệnh từ chối tất cả mọi yêu cầu chở người tập kết ra Bắc. Chúng ta không kể đến một số không nhỏ nhiều người theo Việt Minh còn lưỡng lự không muốn rời bỏ miền Nam để ra sinh sống ngoài Bắc. Cũng không kể có một số người được cài lại miền Nam để phá rối hiệp định Geneva.

Tài liệu đọc thêm: Người viết hiện đang có trong tay tập tài liệu của Bộ ngoại giao Hoa Kỳ (? – DCVOnline) ghi lại về việc cộng sản cài người ở lại miền Nam Việt Nam như sau: Cuộc xâm lược từ miền Bắc, hồ sơ về chiến dịch chinh phục miền Nam Viêt Nam của Bắc Việt. Trong phần V của tập tài liệu có ghi như sau:
“Khi Việt Nam bị chia đôi, hàng ngàn đảng viên được lựa chọn kỹ càng và được lệnh ở lại tại chỗ miền Nam và gìn giữ guồng máy bí mật của họ cho nguyên vẹn hầu giúp tăng tiến mục đích của Hà Nội. Võ khí và đạn dược được tích trữ để sau này được đem dùng. Du kích quân trở về với gia đình để chờ lời kêu gọi của Đảng. Những kẻ khác rút vào những sào huyệt ở tận rừng sâu.

Đa số, khoảng 90 ngàn người đi ra Bắc Việt.
(Trích tài liệu của Bộ ngoại giao Hoa Kỳ, trang 26)

Việt Nam Cộng Hòa sau này cũng cho xuất bản một cuốn Bạch thư nhan đề: Chính sách xâm lược của Việt Minh Cộng sản do chính phủ VNCH ấn hành vào tháng 07/1962.

Trong các con số Việt Minh tập kết ra Bắc, con số nào là chính xác? Khi những người miền Nam được gọi là “tập kết” ra Bắc, phần không nhỏ, bọn họ để lại gia đình trong Nam. Vậy con số 85.000 được chuyên chở trên chỉ một chiếc tầu thủy theo thuyền trưởng tầu Ba Lan có tin được không? Cũng không hiểu tầu Kilinski thuộc loại tầu gì? Khả năng chuyên chở tối đa là bao nhiêu? Và họ đã chuyên chở bao nhiêu chuyến từ Bắc vào Nam? Tỉ lệ quá chênh lệch (giữa hai bên) này nói gì?(1)


Những sĩ quan và quân đội quốc gia tiếp quản những khu vực do Việt Minh trao trả lại trước khi ra Bắc theo Hiệp Định Geneva

Đây là một vấn đề ít được sách vở tài liệu nói tới. Theo lời một nhân chứng, đại úy Tùng lúc bấy giờ là sĩ quan tham dự vào chiến dịch tiếp quản này kể lại như sau cho tôi như một chứng từ miệng.

Đại úy Tùng thuộc đơn vị Sub Division Nam Định. Đơn vị này trước đây thuộc quân đội Pháp và đã được chuyển giao cho quân đội Quốc gia vào năm 1954 do sĩ quan Dương Quý Phan làm Tư lệnh. Trong đơn vị này có các sĩ quan như Tôn Thất Xứng (sau này thăng Thiếu tướng) trung tá Phạm Văn Đổng (sau cũng thăng Thiếu Tướng).

Sau đó, đại úy Tùng được lệnh di chuyển vào miền Nam, tháng 07/1954. Đơn vị của ông do đại tá Lê Văn Kim (sau này thăng Trung tướng) làm chỉ huy trưởng cuộc hành quân. Tôn Thất Đính (sau thăng Trung Tướng) làm Tham Mưu trưởng đi tàu há mồm LST của Pháp đổ bộ Sa Huỳnh rồi thẳng đường đến Quy Nhơn. Tuy nhiên, việc tiếp quản lại do một tiểu đoàn dù của Tây đi trước nhận bàn giao trực tiếp từ phía Việt Minh, sau đó mới giao lại cho quân đội Quốc Gia. Sau khi tiếp quản Quy Nhơn rồi lần lượt đến tiếp quản Sông Cầu, Tuy Hòa. Cũng xin nhắc lại trước khi có Hiệp định Geneva thì nơi đây đã xẩy ra một cuộc hành quân lớn tên Operation Atlante có sự tham dự của Đỗ Cao Trí mang một Tiểu đoàn Khinh binh từ Bắc vào Tuy Hòa. Cuộc hành quân kết cục là thất bại.

Tình hình ở Quy Nhơn lúc bấy giờ nằm trong tay quân đội Việt Minh. Không có điện, nước. Chỉ ở đường phố chính có điện nhờ dùng hai dynamô của xe thiết giáp chạy bằng dầu hỏa. Việc giao thông thì có một đoạn đường xe lửa chạy dài chừng 20 kilô mét, chỉ có một toa. Không có đầu máy. Khi chạy thì người ta dùng tay nhận một cái cần từ trên xuống dưới như một thứ piston, cộng thêm sức của chừng 10 người đẩy cho toa xe lửa có đà để chạy. Khi nào toa xe ngừng lại thì xuống đẩy tiếp. Đến nơi thì họ lại nhảy xuống kéo thừng để cho toa xe ngừng lại thay cái thắng.

Tình hình dân chúng thì tỏ vẻ lạnh nhạt, nếu không nói là ác cảm với quân đội Quốc Gia. Một lần, lính Quốc Gia mang trứng gà đến nhà dân để xin luộc, dân chúng từ chối không cho mượn bếp để luộc trứng.

Sau này, quân đội Quốc Gia phải bỏ công rất nhiều, dùng tâm lý chiến để lấy được lòng dân. Đặc biệt, sau khi tiếp quản Quy Nhơn xong thì thủ tướng Ngô Đình Diệm có ra thăm ủy lạo dân chúng và sau đó, trong dân gian đã truyền tụng hai câu thơ như sau:

Mười năm không thấy cụ Hồ
Mới có 10 ngày đã đón cụ Ngô



Operation Passage to Freedom.

Phải nói rằng năm 1954-1955 đánh dấu một cuộc di cư vĩ đại về người trong lịch sử nhân loại. Và đối với người Mỹ, nhất là những thủy thủ trực tiếp trong việc cứu vớt người tị nạn thì công việc cứu giúp người di cư từ miền Bắc vào miền Nam thì trước hết và sau cùng cũng vẫn chỉ là một trách nhiệm tinh thần, một Moral obligation của một dân tộc giúp một dân tộc để có thể sống tự do trong một chính thể dân chủ, không bị đe dọa bởi cộng sản.

Săn sóc nguời di cư trên tàu USS Bayfield, 1954
Nguồn: HQ Hoa Kỳ/Thư khố Quốc gia
Thật vậy, đối với phần đông các thủy thủ các tầu chiến, đại diện cho nước Mỹ nay ở tuổi 70 và 80, họ chỉ nhìn thấy công việc của họ với tính cách nhân đạo và cả đời họ sau này, điều gì còn lại vẫn là tình nhân loại trong công việc làm của họ.

Họ được quyền được hiểu như thế.

Sự dấn thân và tinh thần lý tưởng ấy vẫn phải được nhìn nhận. Mặc dầu sau này, chính phủ Mỹ đã trực tiếp tham gia vào chiến trường miền Nam thì đó lại là một vấn đề khác, nhất định không phải là vấn đề của họ.

Riêng đối với người Việt Nam từ Bắc chí Nam, ý nghĩa cuộc di cư ấy là một chọn lựa chính trị dứt khoát không chấp nhận chế độ cộng sản.

Cả thế giới đã chú tâm theo dõi biến cố chính trị thời đó. Đặc biệt là báo chí Mỹ. Tôi tâm đắc với nhan đề một bài báo với hàng chữ lớn: Let Our People go. Hãy để cho dân chúng tôi đi. Hành trình ra đi đó gợi nhớ cho người viết cuộc ra đi hơn 2000 năm trước đây của người Do Thái ra khỏi Ai Cập đi tìm miền đất hứa.

Và xin được dẫn một chứng từ về cuộc ra đi hào hùng ấy của đồng bào Thanh Hóa (thuộc liên khu 4 của Việt Cộng):

“Kế hoạch bàn định xong, vào một đêm không trăng, chúng tôi cho đàn bà trẻ con xuống bè mảng trước, còn đàn ông chúng tôi ở lại điều khiển đốt làng.“Đốt cho sạch”, ấy là khẩu hiệu chung của chúng tôi. Mỗi gia trưởng và trai tráng trong mỗi gia đình đều có nhiệm vụ thanh toán bằng lửa túp nhà của mình, nên ai nấy đều hăm hở, mặc dù là đốt mồ hôi nước mắt của chính mình.Thế rồi hiệu lệnh phát ra, trăm bó đuốc châm lên, trăm ngôi nhà đỏ rực.

Đây mới thực là lửa đỏ căm hờn bùng cháy.

Lửa đỏ đầy làng, đốt cháy bao cơ nghiệp của dân làng, mà dân làng đều vui mầng hớn hở cũng đau đớn thật. Xong công việc chúng tôi rút lui ra chỗ thuyền bè đậu, cách xa bờ độ 100 thước, và hối hả chống chèo hướng ra bể khơi. Chúng tôi say sưa chèo mãi cho đến khi ánh lửa trên bờ tàn và dần dần tắt hẳn mới trở lại thực tại và thấy mình lênh đênh giữa biển cả...

Đi là cái hy vọng độc nhất của chúng tôi. Mãi cho đến lúc rạng đông, mặt biển song sao, gió lộng, ánh thái dương ló dạng chúng tôi mới quay lại phía sau, nhìn lên bờ, nhưng không thấy đâu là bờ bến cả.

Lênh đênh trên mặt biển cho đến lúc đứng bóng thì đoàn chúng tôi trông thấy một chiếc tầu chiến ở ngoài xa. Chúng tôi reo hò, giơ tay vẫy, có người có sáng kiến hơn, cột mảnh áo trắng lên trên cây xào làm cờ phất lia lịa. May quá, chiếc tầu chiếu đèn lên 5,6 lần hướng về phía chúng tôi. Một hồi sau chúng tôi tiến đến bên tầu chiến. Các sĩ quan và thủy thủ hình như đã được lệnh tiếp đón chúng tôi, nên họ không hỏi han gì cả dòng thang giây xuống đón chúng tôi. Họ niềm nở, đỡ tất cả bọn chúng tôi lên tầu, và mọi người lúc ấy mới thật là hú vía, thoát hiểm.

Và tàu cập bến Hải Phòng lúc 2 giờ đêm.
(Trích Cuộc Di cư lịch sử, trang 90-91)

Nhưng đã có bao nhiêu người di cư may mắn như đám người trên?

Tác giả Minh Võ, trong bài viết: Di cư, một kỷ niệm đắng cay sau trở nên ngọt ngào viết:

“Mẹ tôi kể lại, bốn mẹ con phải đi 4 lần mới có một lần thành công. Đường đi dài gần 200 cây số mà cứ gần đến Hải Phòng thì lại phải dẫn nhau quay về, vì lần nào cũng bị Việt Minh ngăn cản, dụ dỗ, đe dọa. Lần thứ bốn, may có một cán bộ địa phương thương tình cấp giấy tờ cho đi hợp pháp mới tới nơi. Bà đã gặp lại người cán bộ này tại miền Nam chỉ ít ngày sau đó. Anh ta nói khi cấp giấy cho gia đình tôi, là trong bụng đã ôm mộng bỏ đảng ra đi rồi.
(Trích Minh Võ, trong Ngô Đình Diệm và chính nghĩa dân tộc, trang 293-294)

Cuộc di cư này có thể chia ra ba giai đoạn: tiếp cư, di cư, và định cư.


Giai đoạn tiếp cư

Trại tạm cư Dốc Mơ
Nguồn: National Geographic magazine, June 1955/truyen-thong.org
Ngay khi nghe tin Điện Biên Phủ thất thủ ngày 07/05 và thỏa ước Geneva vừa được ký kết ngày 20/7 chưa ráo mực thì đã có những chuyển biến trong dân chúng.

Đúng ra là một cuộc khủng hoảng, xáo trộn lựa chọn chính trị giữa đi hay ở. Nó không giống hoàn cảnh một thứ tháo chạy rút quân như ở Ban Mê Thuột. Nhưng nó cũng có một vài góc cạnh giống như thế. Việc đi hay ở tùy thuộc khu vực dân chúng nằm trong vùng kiểm soát của Việt Minh cộng sản hay trong vùng kiểm soát của Quốc gia. Nhiều cuộc di chuyển tháo chạy, co cụm chuyển từ vùng ít an toàn sang vùng an toàn hơn.

Người Pháp đã không nghĩ tới hoặc không có một kế hoạch cụ thể nào nhằm tạm cư những người dời bỏ làng mạc ra đi. Trong Passing the Torch (tác giả, năm xuất bản? – DCVOnline) đã nhận xét như thế này: “When refugees surged into Hai Phong, they encountered the chaos of an overcrowded and hostile city. By August 10, 1954, an estimated two hundred thousand refugees were encamped at Hanoi and awaiting evacuation. (Trích trang 98) Khi số người di cư tràn ngập về Hải Phòng, họ gặp phải tình trạng hỗn độn, tràn ngập người và sự thù nghịch của thành phố. Đến 10/8/1954, có khoảng 200.000 người tỵ nạn tạm trú ở Hà Nội và chờ đợi được di cư.

Trong khi đó, dân chúng các tỉnh phía Nam của Bắc phần bỏ làng mạc và tập trung về những vùng như Bùi Chu, Phát Diệm, Nam Định và Phủ Lý mà họ cho là an toàn hơn. Chẳng hạn tỉnh Bùi Chu có cả thảy 365 làng, nhưng phần lớn đều không có an ninh. Khi nghe tin Điện Biên Phủ thất trận thì dân chúng bỏ chạy co cụm về chung quanh tỉnh Bùi Chu.

Trong sách Cuộc Di Cư Lịch Sử, trang 83 được viết lại như sau:
“Rồi cùng với những cuộc triệt thoái của quân đội Liên Hiệp Pháp khỏi các tỉnh miền Nam Trung-châu Bắc Việt, nhân dân các tỉnh Bùi Chu, Ninh Bình, Nam Định, Phủ Lý vội vàng chạy về Hà Nội. Tiếp đó nhân dân các tỉnh chung quanh Hà Nội như Hà Đông, Hà Nam, Hưng Yên, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc Yên cũng hốt hoảng kéo về Hà Nội. Những lớp sóng người dồn dập kéo về Hà Nội giữa khi dân chúng đô thành hoang mang lo lắng đã thức tỉnh những kẻ hoài nghi, do dự và châm ngòi cho phong trào di cư bùng nổ 3 ngày trước khi Hiệp định Geneva được ký kết. Chuyến tầu đầu tiên chở dân chúng Phát Diệm di cư vào Nam rời cửa biển Bắc Việt vào ngày 17/07/1954 và cặp bến Sài Gòn ngày 21/07/1954.

Xin nói cho rõ hơn, Bùi Chu và Phát Diệm là hai vùng bị triệt thoái đầu tiên của quân đội Pháp nên Bùi Chu và Phát Diệm cũng là những nơi đầu tiên mở đầu cho phong trào di cư vào miền Nam. Vì thế không lạ gì, tầu Thuỵ Điển Anna Salen rời cửa biển Bắc Việt và vào đến cảng Sài Gòn chỉ một ngày sau khi Hiệp định Geneva được ký kết.

Như vâỵ, người dân Phát Diệm là những người đầu tiên chính thức di cư từ miền Bắc vào miền Nam.

Phong trào di cư sau đó cứ thế mà lan rộng.

Ở đây, nơi những khu vực tạm trú, mọi thứ đều thiếu thốn vì không được chuẩn bị. Chẳng hạn toàn tỉnh Bùi Chu chỉ có một nhà thương với 85 giường bệnh để phục vụ cho 440.000 dân. Chính quyền Quốc gia và Pháp tỏ ra bất lực. May có cơ quan USOM của Mỹ giúp giải quyết được một phần nào những khó khăn về thuốc men và nước uống.

Như đã nói ở trên, chỉ tính đến ngày10/08/1954, người Pháp và chính phủ quốc gia phải đối đầu với 200.000 người di cư chờ được đi vào Nam. Lo chỗ ăn, chỗ ở nước uống, bệnh xá cho 200.000 người chắc không dễ?

Phần chính phủ Pháp, họ chưa thoát ra khỏi hết nỗi ám ảnh tuyệt vọng bị thất trận ở Điện Biên Phủ. Và theo tinh thần Hiệp định Geneva, họ phải rút khỏi Đông Dương trong vòng hai năm. Trong thời gian này, họ cần 400 triệu đô la Mỹ để nuôi quân lính Pháp. Ai sẽ tài trợ số tiền này, nếu không phải là Mỹ. Việc chuyên chở thương phế binh về Pháp cũng phải thương lượng với người Mỹ. Mối bận tâm hằng đầu của họ chỉ là triệt thoái an toàn binh đội Pháp ra khỏi Bắc Việt. Ngay trước khi thất trận Điện Biên Phủ, người Pháp đã có kế hoạch rút khỏi Bắc Việt các cơ sở hành chánh như ngân hàng, các cơ sở giáo dục, các trường Tây đưa vào miền Nam.

Và họ đã làm.

Nhưng họ có đủ phương tiện tiền bạc và kế hoạch để giải quyết vấn đề di chuyển của người tị nạn sau hiệp định Geneva không?

Phần chính phủ ông Diệm mà người ta gọi là “l’homme nouveau”, người mới, tiếng là thủ tướng chính quyền Quốc gia Việt Nam từ Nam ra Bắc, nhưng xem ra quyền hành của ông thu gọn ở phía Nam hơn là phía Bắc. Không thể trách được vì ngày 26/06/1954, ông Diệm mới đặt chân xuống Sài Gòn trong một tình huống cực kỳ bấp bênh và hỗn loạn. Bấp bênh vì có nhiều chống đối từ phía người Mỹ và nhất là phía người Pháp bằng đủ thứ ngôn ngữ thô tục nhất gán ghép cho ông như: thiển cận, bướng bỉnh, quá cứng rắn, một giải-pháp-khác-Diệm, chống cộng cực đoan, người khó khăn để liên hệ, kẻ tiên tri không có lời rao giảng. Nhiều giải pháp, nhiều tên tuổi được nêu ra trong danh sách những người có thể thay thế ông Diệm.

Salan đã đón chào ông Diệm về làm thủ tướng bằng cách ra lệnh triệt thoái quân đội viễn chinh Pháp ra khỏi 4 tỉnh phía Nam của Bắc Việt và sau đó để quân đội quốc gia thay thế. Việc triệt thoái binh đội Pháp ra khỏi 4 tỉnh phía Nam trước sau cũng phải làm. Nhưng làm sao để không gây ra những bất ổn chính trị, tình trạng hoảng loạn không tránh được của thành phần dân chúng sống trong các vùng tề do Pháp kiểm soát?

Xin trích dẫn Trần Tam Tỉnh, kẻ đưa đường cho cộng sản, mô tả hoàn cảnh người di cư các tỉnh phía Nam Bắc bộ như sau:

Báo chí ngày 25/10/1954 viết: “Cuộc xuất hành bằng đường biển với những người di cư, phần đông phương tiện khác rất yếu ớt, những người di cư, phần đông là công giáo, từ các vùng Bùi Chu, Phát Diệm do Việt Minh kiểm soát, trong vòng 24 giờ qua đã lên tới con số khổng lồ khiến bộ tư lệnh Hải quân Pháp đã phải quyết định vớt họ. Đêm qua và sáng nay, các đơn vị Hải quân Pháp đã chở tới Hải Phòng gần 2000 người di cư, họ vớt được ngoài khơi hải phận Việt Minh, ở lối 100km mạn Nam Hải Phòng.Theo lời những người di cư, hàng ngàn người khác thuộc địa phận Bùi Chu và Phát Diệm đang tìm cách chạy trốn, có khi phải trả 5000 quan Pháp cho một chỗ trên các thứ thuyền hoặc bè. Nhiều thuyền bè đã bị lật và đắm luôn trong các cơn bão đang làm dữ mấy ngày này. Như vậy, hàng trăm người di cư đã bị chết đuối trong tai nạn đó. Ngày 26/10/1954, báo chí đưa tin: 15.000 người công giáo bỏ trốn bằng ghe thuyền hoặc bè để đi tìm tự do, từ các địa phận Bùi Chu và Phát Diệm đã tới được Hải Phòng”.
(Trích Thập giá và lưỡi gươm, Trần Tam Tỉnh, trang 109)

Amouroux đã viết trên tờ Aurore lời kêu gọi như sau:
“Chúng ta, thế giới tự do và không chỉ có nước Pháp, chúng ta có thể nào bỏ rơi những con người đó mặc cho sự trả thù, đem quẳng họ lại vào bàn tay cộng sản và làm cho cuộc bỏ trốn kỳ diệu của họ năm 1954 hóa ra vô ích sao?”

Thực sự trên thực tế, quân đội quốc gia cũng đã không thể thay thế quân đội Pháp được. Người viết bài này đã theo anh rể thuộc Bảo An đoàn, từ Phủ Lý được chuyên chở bằng xe camion ra Hà Nội, rồi từ Hà Nội đáp máy bay vào Tourane vào cuối tháng 07/1954. Đó là những chuyến bay sớm nhất của quân đội Pháp chở binh sĩ Quốc gia và gia đình của họ di cư vào miền Nam.

Dân chúng ở các tỉnh bị quân đội Pháp bỏ rơi như Hưng Yên, Sơn Tây, Hưng Hóa Bắc Ninh còn có nhiều cơ may di cư ra Hải Phòng hoặc Đồ Sơn bằng đường bộ. Khốn đốn nhất là dân chúng di cư từ các tỉnh phía Nam Bắc Việt không dễ dầu trốn đi được bằng đường bộ cũng như đường thủy ra Hải Phòng.

Từ cửa Cồn Thoi ra Hải Phòng trên những mảnh bè tre nứa ghép lại một cách vội vã, tùy tiện bỏ mặc cho sự sống chết là trăm phần gian nan và khốn đốn.

Được tin này, ngày 29/06 ông Diệm phản đối kịch liệt quyết định của người Pháp và yêu cầu người Mỹ can thiệp với thủ tướng Mendes-France. Sự thù hận và mối hiềm khích nghi kỵ của ông Diệm đối với người Pháp từ những sự việc trên kéo dài. Sau này, ông Diệm yêu cầu Pháp chấm dứt mọi liên hệ với Hà Nội. Pháp không đồng ý. Ông cũng nghi ngờ người Pháp là đầu mối giật giây, âm mưu với các giáo phái cũng như đứng đằng sau nhóm Bảy Viễn, Nguyễn Văn Hinh.

Vì thế, khi ổn định xong tình hình chính trị miền Nam thì đã đến lúc người Pháp phải xách gói ra đi. Ngày 28/04/1956, ngày cuối cùng của một số binh đội Pháp còn sót lại diễn hành trên đường phố Catinat, sau đó đáp tầu ở bến cảng Sài gòn trên đường về nước. Cũng có nước mắt tiễn đưa. Ở đâu, thời nào thì cũng thế, người ta nhìn thấy có những mệnh phụ lén lút chùi nước mắt tiếc nuối. Cũng đầy đủ nghi lễ, cũng kèn trống.

Kể từ nay, chế độ thực dân Pháp thực sự chấm dứt.

Phải chăng những nghi thức bề ngoài là những thứ mà lúc nào một người Pháp lịch sự, có văn hóa cũng cần đến? Hình ảnh này nhắc nhở người ta nhớ đến buổi lễ cuốn cờ của quân đội Pháp ở Hà Nội vào tháng 10/1954.

Họ muốn ra đi trong đàng hoàng, trật tự như khi quân đội Pháp rút khỏi Hà Nội để bàn giao lại cho Việt Minh thay thế họ?

Sau này, ông Diệm chỉ riêng tặng huân chương cao quý Presidential Citation with Ribbon of friendship cho Hải quân đô đốc Sabin tại Sài Gòn khi giai đoạn di cư đã hoàn tất.(2)

In recognition of the invaluable services rendered to the free people of Viet Nam by the members of the Royal Navy, engaged in this operation.

I, as President of the Council of Ministers, State of Viet Nam, hereby award to Admiral Sir Charles E. Lambe, KCB, CVO, representing the office and men of the Royal Navy.

The Ribbon of Friendship

During the months of August and September 1954, the members of the Royal Navy assisted to freedom from the terrors of Communist rule in their home territory in North and Central Viet Nam, hundreds of thousands of men, women and children.

Thanks to the efficient and humanitarian assistance of the members of the Royal Navy these refugees have been given an opportunity to start their lives anew in the free territories of Viet Nam.

The free people of Viet Nam express their heartfelt gratitude for this unselfish manifestation of friendship and support.

Saigon, the 7th of October 1954

Chữ Ký: Ngô Đình Diệm
Nguồn: lycos.co.uk
Nhiều tin đồn cho hay quân đội Pháp bỏ bom các tỉnh phía Nam Bắc việt làm chết cả ngàn người và rằng xe nhà binh Pháp chỉ chịu chở thường dân với giá 100 đồng mỗi người. Tin đồn như thế không lấy gì làm chắc chắn và bỏ bom xuống dân chúng để làm gì? Số lượng máy bay dùng để chuyên chở binh đội Pháp và Quốc Gia còn không đủ, lấy đâu ra máy bay để thả bom giết hại dân chúng? Và ở thời kỳ 45-54, những chiếc máy bay quan sát Morane của Pháp bay chậm như rì, chỉ cần một cây đại liên cũng có khả năng bắn rơi. Và xin nhắc nhở một chi tiết nhỏ là loại máy bay Morane chỉ có sàn máy bay là làm bằng sắt, tất cả những phần thân và nóc làm bằng vải bạt. Pháp còn bao nhiêu máy bay DC3 dùng để đi ném bom?

Quân đội Pháp còn rất eo hẹp, nghèo nàn và giới hạn lắm về phương diện máy bay. Và đó cũng là một trong những lý do kỹ thuật làm mất Điện Biên Phủ.

Ngày 30/06, ông Diệm bay ra Hà Nội gặp giới chính quyền người Pháp và bàn thảo, thương lượng về kế hoạch rút quân đội Pháp và Việt Nam. Đồng thời, ông cũng gặp giới chức quân đội và hành chánh Việt Nam. Trong một buổi lễ do chính quyền Việt Nam tiếp đón ông, có việc một số binh đội Quốc gia quần áo, gươm súng nai nịt chỉnh tề, sau đó có buổi lễ tuyên thệ của giới chức trong chính phủ, quỳ và thề trung thành với Quốc Trưởng Bảo Đại.

Kết quả cuộc thương thảo này không biết như thế nào?

Nhưng việc ông Diệm ra Bắc gây được tiếng vang tốt cũng như tin tưởng trong đám người di cư. Ông được coi như linh hồn của cuộc di cư và một thứ bản mệnh tương lai cho họ, nhất là những người theo đạo Thiên Chúa.

Lúc này, chung quanh Hà Nội như Gia Lâm, Hàm Long, Thái Hà Ấp, Nhà Ga Hàng Cỏ, chung quanh hồ Hoàn Kiếm, la liệt người di cư từ khắp nơi đổ về. Chỗ nào có đất trống là có người đến trú ở tạm. Ăn nằm la liệt ngổn ngang khắp nơi, một vỉa hè, một công viên. Người Mỹ đã cung cấp 18.848 tấn gạo, 1200 tấn cá khô cho các trại tiếp cư chung quanh Hải Phòng. USOM đã giải tỏa 31 triệu đồng để mua thực phẩm dự trữ. (Trích OPTF, trang 23).


(Còn tiếp)