Thứ Năm, 31 tháng 3, 2011

Nguyễn Hưng Quốc: Dân chủ là gì?

Trong hơn hai thập niên vừa qua, trên thế giới, có lẽ ít có chữ nào, về phương diện tần số xuất hiện, được phổ cập; về phương diện từ nguyên, đơn giản và dễ hiểu; về phương diện lý tưởng, được nhiều người đồng thuận; nhưng về phương diện ngữ nghĩa, lại mơ hồ; và về phương diện chính trị, lại bị lợi dụng nhiều như chữ dân chủ.

Ở đâu cũng nghe chữ dân chủ. Chữ dân chủ xuất hiện ngay trong tên chính thức của nhiều nước (chẳng hạn, ở Việt Nam trước đây, “Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa”) hoặc trong hàng tiêu ngữ thường được viết dưới quốc hiệu. Chữ dân chủ cũng được đặt làm tên các đảng phái chính trị. Phần lớn các cuộc cách mạng nổi lên từ đầu thế kỷ 20 đều nhắm đến lý tưởng dân chủ. Các cuộc cách mạng bùng nổ ào ạt từ cuối thế kỷ 20 lại càng giương cao ngọn cờ dân chủ. Nhân danh dân chủ, người ta phá sập bức tường Bá Linh. Nhân danh dân chủ, người ta tuyên bố khai tử chủ nghĩa cộng sản từng có thời thống trị cả một nửa nhân loại. Gần đây, cũng nhân danh dân chủ, người dân ở một số nước Trung Đông và Bắc Phi xuống đường thách thức lại các chế độ chuyên chế từng bóp nghẹt tự do của họ trong cả mấy chục năm ròng rã.

Mà không phải chỉ mới phổ biến gần đây. Khái niệm dân chủ, vốn gắn liền với nền văn minh La Hy, đã xuất hiện từ lâu. Chữ “democracy” (dân chủ) trong tiếng Anh và một số ngôn ngữ Tây phương khác hiện nay có gốc gác từ tiếng Hy Lạp cả hơn hai ngàn năm trăm năm trước, trong đó, “demos” là dân, nhân dân; và “kratos” là trị, cai trị. Có lẽ nó hoàn toàn tương đương với chữ “dân chủ” mà chúng ta đang sử dụng: dân làm chủ. Không có người nào tóm tắt khái niệm dân chủ ấy hay bằng Abraham Lincoln trong câu nói nổi tiếng: “chính quyền của dân, do dân và vì dân”.

Đơn giản như thế, nhưng đi vào thực tế, khái niệm dân chủ bỗng trở thành phức tạp lạ lùng.

Thứ nhất, dân hay nhân dân là ai? Nhân dân, như một toàn khối, là một khái niệm mơ hồ, hàm hồ và phi thực. Ở đâu người ta cũng phải lựa chọn, và lựa chọn cũng có nghĩa là loại trừ. Ngày xưa, trong các nền dân chủ sơ khai thời cổ đại Hy Lạp, có ba thành phần bị loại trừ: những người ngụ cư, nô lệ và phụ nữ. Sau, dưới thời trung cổ, một thành phần khác bị loại trừ: những kẻ ngoại đạo. Ngay dưới những chế độ dân chủ thực sự thời hiện đại, thoạt đầu, cũng có nhiều thành phần bị loại trừ, chủ yếu vì lý do chủng tộc: người da đen ở Mỹ và người thổ dân ở Úc. Ngay cả khi không phải vì những lý do liên quan đến chủng tộc, giới tính, tôn giáo hay giai cấp, sự loại trừ vẫn có thể xảy ra giữa đa số và thiểu số; có khi, do thiết chế, chính đa số cũng có thể bị loại trừ như trường hợp cuộc bầu cử Tổng thống ở Mỹ năm 2000 khi Al Gore chiếm được đa số phiếu phổ thông nhưng lại thua Georges W. Bush, người được nhiều phiếu của cử tri đoàn.

Thứ hai, bằng cách nào nhân dân làm chủ đất nước, qua đó, làm chủ số phận của mình. Trên lý thuyết, có hai cách chính: một là trực tiếp; hai là gián tiếp, qua các đại biểu. Cách trên, về giá trị, được coi là tối ưu, nhưng trên thực tế, ở tầm quốc gia, hầu như bất khả thực hiện. Cách dưới, từ Cách mạng Pháp về sau, được xem như là hình thức khả thi duy nhất của dân chủ, từ đó, thuật ngữ “dân chủ đại biểu” (representative democracy) được ra đời. Nhưng ở đây lại nổi lên một số vấn đề. Chẳng hạn, thế nào là “đại biểu”? Theo A.H. Birch, trong cuốn Representation (1972), khái niệm “đại biểu” có ít nhất ba cách dùng khác nhau: một, người hành động nhân danh quyền lợi và sở thích của kẻ khác; hai, người chia sẻ một số đặc điểm của cả một tập thể nào đó; và ba, người tự đồng nhất mình với một tầng lớp nhất định. Sau khi xác định ý nghĩa của chữ “đại biểu”, lại gặp một vấn đề khác: làm thế nào để chọn các đại biểu ấy? Trong lịch sử, có nhiều hình thức chọn lựa khác nhau, và không phải hình thức nào cũng thực sự dân chủ, nhất là khi những người được xem là đại biểu ấy không phải lúc nào cũng tôn trọng nguyện vọng của những người đã bầu cho mình.

Tuy nhiên, những sự khác biệt ấy cũng không ngăn cản giới trí thức và chính trị gia thành tâm và có thiện ý đạt đến một số đồng thuận nhất định để có thể phân biệt được dân chủ thực sự với những hình thức phi dân chủ hay dân chủ giả hiệu.

Nói một cách tóm tắt, dân chủ phải bao gồm ít nhất một số yếu tố:

Một, nói đến dân chủ, trước hết, là nói đến cơ chế, đến cách thức tổ chức chính quyền. Một chế độ dân chủ phải được dân bầu một cách tự do và bình đẳng. Tính chất tự do và bình đẳng ấy chỉ có thể thực hiện được với một số điều kiện nhất định: thứ nhất, quyền phổ thông đầu phiếu cho mọi người thành niên; thứ hai, mọi người đều có quyền tham gia vào các hoạt động chính trị và xã hội, đặc biệt, được quyền đối lập và phản biện, quyền tuyên truyền và vận động cho lập trường và quan điểm của mình; điều đó có nghĩa là, thứ ba, sinh hoạt chính trị phải dựa trên nền tảng đa nguyên và đa đảng.

Tuy nhiên, bầu cử và đa đảng không bảo đảm được dân chủ nếu chính quyền không tổ chức bầu cử một cách nghiêm minh hoặc sau đó, không tôn trọng kết quả bầu cử (như trường hợp Miến Điện hay Zimbabwe trước đây). Do đó, cần thêm hai điều kiện này nữa: tính chất khả kiểm (accountability) và tinh thần thượng tôn pháp luật. Tính chất khả kiểm lại dựa trên sự minh bạch của chính phủ và quyền tự do thông tin và ngôn luận của mọi người. Trong khi đó tinh thần thượng tôn pháp luật chỉ có ý nghĩa khi tư pháp được độc lập với hành pháp.

Hơn nữa, nói đến cơ chế, không nên chỉ nghĩ đến nhà nước. Trong một xã hội dân chủ, nhà nước chỉ là một bộ phận trong mạng lưới các thiết chế đa dạng và phức tạp, bao gồm các tổ chức chính trị, tôn giáo, nghiệp đoàn, văn hóa, xã hội, thương mại, v.v... Các tổ chức này phải được độc lập với chính quyền và nhằm phát huy một xã hội dân sự lành mạnh để, một mặt, củng cố tình liên đới giữa các cá nhân, mặt khác, bảo vệ quyền lợi của các cá nhân trước khuynh hướng bao trùm và khống chế tất cả của nhà nước.

Hai, tất cả các cơ chế ấy phải được vận hành trên một nguyên tắc: pháp trị. Dân chủ chỉ thực sự là dân chủ khi nó được đặt trên nền tảng pháp luật. Pháp luật ấy, một mặt, gắn liền với những giá trị phổ quát của nhân loại; mặt khác, chi phối mọi thành viên trong xã hội, hoàn toàn không có ngoại lệ, nghĩa là không có ai, tuyệt đối không có ai, dù là vua hay tổng thống hay tổng bí thư đảng, có thể đứng trên pháp luật được.

Hai yếu tố trên rất được nhiều người nhắc đến. Nhưng dân chủ không phải chỉ là cơ chế hay nguyên tắc. Dân chủ còn là một hệ thống niềm tin và giá trị. Bởi vậy đằng sau các cơ chế hay nguyên tắc ấy bao giờ cũng có một thứ văn hóa chính trị đặc biệt được xây dựng trên ba nền tảng chính: Thứ nhất, sự tôn trọng nhân quyền, trong đó có hai quyền cơ bản nhất: tự do và bình đẳng của mọi công dân. Không được quyền nhân danh bất cứ thứ gì, kể cả đa số, để áp chế, tước đoạt quyền lợi hay chà đạp lên nhân phẩm của người khác thuộc phe thiểu số. Một xã hội dân chủ thực sự, một mặt, thực hiện ước muốn của đa số, nhưng mặt khác, phải bảo đảm quyền lợi của thiểu số. Điều quan trọng là việc bảo vệ quyền tự do và bình đẳng của con người phải được thiết chế hóa chứ không phải chỉ dựa vào thiện chí của các nhà lãnh đạo. Thứ hai, một văn hóa dân sự (civic culture) với hai trọng tâm là ý thức trách nhiệm và sự tin cậy đối với cộng đồng và đất nước. Thứ ba, tôn trọng sự đa dạng. Đây là sự khác biệt chính giữa dân chủ cổ điển (ở Hy Lạp) và dân chủ hiện đại: trong khi dân chủ cổ điển dựa trên sự thống nhất và đồng nhất, dân chủ hiện đại dựa chủ yếu trên sự đa dạng và sự khác biệt.

Không phải cái gọi là dân chủ nào cũng hội đủ các đặc điểm nêu trên. Bởi vậy, trên thế giới mới có dân chủ thật và dân chủ giả (pseudodemocracy). Dưới các nền dân chủ giả, dân chúng cũng được phát phiếu đi bầu. Nhưng họ chỉ được bầu những người đã được ai đó lựa chọn sẵn. Và họ hoàn toàn không kiểm soát được hai điều mà, trên nguyên tắc, họ cần và có quyền kiểm soát: thứ nhất, quá trình đếm phiếu (không phải ngẫu nhiên mà ở các nền dân chủ giả, những người thắng cử bao giờ cũng thắng một cách hết sức vẻ vang, toàn 100% hoặc gần gần 100%!), và thứ hai, quá trình hoạt động của các đại biểu sau khi thắng cử.

Bạn thử nghĩ xem nền dân chủ ở Việt Nam hiện nay là thật hay là giả?

Nguyễn Hưng Quốc

Nguồn: http://www.voanews.com/vietnamese/blogs/quoc/dan-chu-la-gi-03-29-2011-118861744.html

Nỗi Buồn Lạm Phát Giá , Xăng

Xăng ! Sao vừa tăng giá mấy hôm lại tăng,
đang thời lạm phát khắp nơi đều tăng,
phen này chết đói đến nhe cả răng...,
Sao lại chơi ác với dân vậy sao?
Xăng ! Bây giờ ta biết kiếm ăn làm sao?
Xăng giờ tăng giá mỗi hôm một cao...bao tiền trong ví mỗi hôm một hao..
Xăng lại chơi ác với dân vậy sao???
Giờ xe máy cất trong nhà mình đếch thèm đi...
đi bằng xe buýt...chi tiền cũng ít..đứng hoài hoài đau đít.
Giờ cưa gái đến chơi nhà mình cứ tặng xăng lấy lòng ba má không cần hoa lá...
Xăng ! hay là ta sẽ đi xe đạp luôn, không chừng cơ bắp mấy hôm lại tăng...
Nghe đồn sang tháng giá xăng còn tăng... nhưng mà tăng nữa cũng mặc mẹ xăng... 
( 2 lần )

Lời ru buồn cho Giá

Giá ơi, xin giá đừng tăng
Để xe đắp chiếu, vì xăng tốn tiền
Vợ tôi đi chợ phát điên
Bữa cơm bão giá triền miên muối vừng.

Giá ơi, xin giá đừng lên
Con tôi mắt cận học bên đèn dầu
Tiền lương nào có tăng đâu
Điện sao tăng giá, điên đầu giá ơi.

Giá ơi, xin giá đừng cao
Em tôi trọ học, thế nào giá ơi
Mới đang chập chững vào đời
Gặp ngay bão giá đầy vơi nỗi lòng.

Giá ơi, xin giá đừng tăng
Giá nào có hiểu thấu chăng người nghèo
Giá tăng buồn cũng tăng theo
Niềm vui theo gió, bay vèo giá ơi.



Thứ Tư, 30 tháng 3, 2011

Quyền và sử dụng quyền

Ngô Nhân Dụng

 

Gần đây ở nước ta có rất nhiều người dân chết trong đồn công an. Từ giữa năm 2007 đến nay hơn 20 người đã chết sau khi bị công an bắt giữ; nhiều người được nói là đã tự hủy mình. Khắp thế giới, chính quyền nào cũng phải chịu trách nhiệm về nơi mình giam người. Sơ ý để một người tự tử trong phòng giam là những cơ quan giam giữ bị khiển trách và trừng phạt. Không biết ở Việt Nam hiện nay có theo tục lệ văn minh đó hay không.

Tháng 3 năm nay là một tháng xấu; không chỉ vì lạm phát mà còn vì công an. Trong một tháng 3 năm 2011, ba người Việt Nam bị công an đánh tới chết hoặc “treo cổ tự tử” trong đồn công an. Bắt đầu là ngày 6 tháng 3, ông Nguyễn Lập Phương 46 tuổi tắt thở sau khi bị công an huyện Thủy Nguyên (Hải Phòng) giam giữ 4 ngày vì tình nghi ông ăn trộm cau ở Khu Công Nghiệp Shinec. Ngày 8 tháng 3, ông Trịnh Xuân Tùng, 54 tuổi, đã chết sau khi bị một trung tá công an dùng gậy đánh gẫy cổ, sau khi ông bị bắt ở bến xe Giáp Bát, Hà Nội, trước đó 8 ngày. Ngày 14 tháng 3 năm 2011, ông Ðặng Ngọc Trung, 48 tuổi, xô xát với một phụ nữ trước quan Karaoke ở thị xã Ðồng Xoài (Bình Phước), ông bị bắt, rồi sáng hôm sau thấy chết ở trụ sở công an; họ nói ông Trung tự tử.

Hai nạn nhân đầu tiên đều bị công an đánh đập, trước và trong khi bị giam giữ. Khẩu hiệu của công an Việt Nam là “Ðảng Còn thì Mình Còn.” Nhưng không có dấu hiệu nào chứng tỏ ba nạn nhân trên từng có ý định chống đối nhà nước. Chắc chắn họ không bao giờ tính lật đổ độc quyền chính trị của đảng Cộng Sản Việt Nam. Nghĩa là việc đánh những người này đến chết không hề có lý do chính trị, công an không giết họ vì cần bảo vệ chính quyền “chuyên chế vô sản.” Các hành động sát nhân đó xẩy ra hoàn toàn trong những nghiệp vụ bình thường của các vị “công an nhân dân.” Chính cái vẻ bình thường đó mới thật là điều đáng kinh ngạc. Và đáng lo ngại.

Anh Nguyễn Lập Phương bị bắt ngày 2 tháng 3 năm 2011, 4 ngày sau, công an nói, họ thấy anh “có dấu hiệu bất thường về sức khỏe nên cho đi cấp cứu, lên viện thì chết.”Trong đêm mùng 1 tháng 3, bị bắt giữ tại Khu Công Nghiệp Shinec, anh Nguyễn Lập Phương đã bị những người “bảo vệ” của xí nghiệp này đánh.” Sáng hôm sau, họ đưa anh tới công an xã Thiên. Vì trên người anh Phương có nhiều vết bầm tím, nên công an xã đã đưa anh đến bệnh viện huyện Thủy Nguyên. Các bác sĩ ở đó chứng nhận anh Phương đã “bị chấn thương phần mềm ở mặt, chân tay, đầu gối, sườn sưng tím, không kêu đau bụng, đau đầu hoặc ngực, trạng thái tỉnh táo.” Ngày 6 tháng 3 năm 2011 anh lại được công an huyện đưa vào bệnh vào buổi chiều. Nửa giờ sau, công an xã nhận được tin anh Phương đã tử vong và đã đến báo cho gia đình biết. Anh Nguyễn Trung Trực, em trai nạn nhân cùng người nhà có mặt tại nhà xác bệnh viện Thủy Nguyên, chứng kiến thi thể anh Phương có nhiều vết bầm tím trên 2 tay, dọc hai bên sườn, chân, cằm và ngực bầm tím, hai mi mắt và hai bên tai có vết rách. Các bác sĩ cho biết: “Bệnh nhân Nguyễn Lập Phương được công an huyện đưa vào bệnh viện lúc 15 giờ 30 phút ngày 6 tháng 3 trong tình trạng đã ngưng thở.”

Theo lời thân nhân của Nguyễn Lập Phương thì lối giải thích ông bị tử vong “do suy tim” là vô lý. Họ cả quyết “từ trước đến nay, anh này không hề có bệnh gì.” Ông Hoàng Phú Giảng, phó trưởng công an xã Thiên Hương cũng khẳng định: “Trong thời gian từ sáng đến chiều ngày 2 tháng 3, tại trụ sở công an xã, anh Phương hoàn toàn khỏe mạnh, không có biểu hiện bệnh tật, trừ việc kêu đau ở tay vì bị đánh. Buổi trưa, anh này còn ăn được hai bát cơm đầy do công an xã đem cho.” Nguyễn Lập Phương cao khoảng 1m70, nặng 65 ký, khi làm việc trong tổ bốc vác, anh được các đồng sự coi là người khỏe nhất. Do đó, cái chết của anh chắc vì bị đánh đập trong lúc ở đồn công an huyện.

Sau khi anh Phương qua đời 2 ngày, đến lượt ông Trịnh Xuân Tùng chết, sau khi bị công anh cùng với một nhóm dân phòng đánh đập ở bến xe Giáp Bát, Hà Nội từ 8 ngày trước. Ông Tùng đã bị trung tá công an Nguyễn Văn Ninh dùng gậy đánh vào cổ.

Theo lời tường thuật của thân nhân thì trưa ngày 28 tháng 2, 2011, ông Tùng thuê xe ôm đi đến bến xe Giáp Bát đón xe lên đường vào Nam. Khi gần tới bến xe, ông xin người lái xe ôm dừng lại, ông cởi mũ an toàn ra để gọi điện thoại cho một người bạn. Trung Tá Nguyễn Văn Ninh (Công an phường Thịnh Liệt, Hoàng Mai) thấy ông Tùng không đội mũ an toàn bèn đòi phạt người lái xe, bắt xe, đưa về phường Thịnh Liệt và hẹn chiều sẽ giải quyết. Khi hai người trở lại để “giải quyết,” anh lái xe không chịu nhận lỗi. Hai bên cãi nhau, Trung Tá Ninh đã túm cổ người lái xe, cho nên ông Tùng can ngăn, gỡ tay ông ta ra khỏi cổ người lái xe ôm; từ đó đưa tới giằng co. Sau đó viên trung tá công an đòi 150 ngàn đồng tiền phạt (khoảng 10 đô la Mỹ), nhưng ông Tùng chỉ chịu nộp 100 ngàn đồng thôi. Cuộc mặc cả đưa tới cãi cọ, xô xát; ba cán bộ về trật tự trong bến xe cũng tới đánh ông Tùng. Trung Tá Ninh đã dùng gậy đánh vào đầu và cổ ông Tùng, xích ông vào gốc cây, rồi giải về phường với lý do đã chống người thi hành công vụ.

Năm giờ chiều, gia đình ông Tùng tới trụ sở công an phường Thịnh Liệt thăm, thấy ông quá yếu, đã bị liệt nửa người, nên xin cho đưa ông đi bệnh viện, nhưng bị từ chối. Công an nói họ “không có thời gian để giải quyết vụ việc này.” Ông Trịnh Xuân Tùng tiếp tục bị còng, cho tới 9 giờ 30 tối mới được cho đi tới bệnh viện Bạch Mai, hai tay vẫn bị còng. Vì tình trạng nguy kịch, ông Tùng được đưa tới bệnh viện Việt Ðức. Ông đã qua đời ngày 8 tháng 3, 2011, mười ngày sau khi bị đánh vào đầu và cổ.

Cuối cùng người Việt Nam nào cũng phải tự hỏi: Có cách nào cho những vụ đánh chết người đó không tái diễn nữa? Ðể trả lời câu hỏi này,chúng ta phải tìm hiểu nguyên nhân vì sao những người gác Khu Công Nghiệp Shinec và công an huyện Thủy Nguyên lại đánh chết ông Nguyễn Lập Phương chỉ vì trộm mấy buồng cau? Vì đâu Trung tá công an Nguyễn Văn Ninh lại đánh ông Trịnh Xuân Tùng đến nỗi chết chỉ vì nghi đã đi xe gắn máy không đội mũ an toàn? Người Việt Nam nào cũng phải tìm hiểu căn nguyên những cái chết này.

Không nên giải thích rằng lý do chính là tính tình các ông công an này nóng nẩy, cục cằn. Ðổ tội cho tính vũ phu, tàn ác của những cá nhân thì không chấp nhận được. Có người sẽ chua chát nói rằng mạng sống dân ta rẻ lắm, ai cũng giết người khác dễ dàng chỉ vì những vụ cãi nhau, đánh nhau. Nhưng đây không phải là chuyện giết nhau giữa những người dân thường. Nhũng vụ đánh chết người này xẩy ra trong mối quan hệ giữa các nhân viên công lực đang làm việc với một người dân (mà các vị công bộc này có nhiệm vụ bảo vệ). Chắc chắn đây không phải là những tranh chấp riêng tư.

Cuối cùng, chúng ta phải vượt trên phạm vi cá nhân mà đi tìm đến “lỗi hệ thống!” Ðó một từ thông dụng bây giờ, từ khi được ông Nguyễn Văn An nhắc đi nhắc lại nhiều lần, và lại được cô Song Chi ghi nhớ. Nhìn tới cả hệ thống, ta cần hiểu vì sao có các vị công an lại ra tay đánh chết người dân chỉ vì những cái lỗi nhỏ nhoi như cái mũ an toàn, giờ quen gọi là mũ bảo hiểm; hoặc vì một vụ trộm cau.

Rất nhiều người sẽ lên án cả chế độ chính trị đã tạo ra những người công an như ông Nguyễn Văn Ninh và các ông ở Thủy Nguyên. Nhưng chế độ chính trị đó như thế nào, nó làm cái gì mà gây ra những vụ đánh chết người này?

Chắc chắn không một hệ thống chính trị nào lại cho phép cảnh sát, công an đánh chết người chỉ vì phạm luật đi đường hay đi ăn trộm vặt. Không có đạo luật giao thông nào nói rằng nếu người dân cãi lời, đôi co to tiếng với cảnh sát, hoặc dám mặc cả giá tiền phạt với công an, thì nhân viên công lực được quyền đánh cho hắn gẫy cổ, chết bỏ. Tàn bạo như chế độ của các ông Hitler, Stalin hay các ông Mao Trạch Ðông chắc cũng không thiết lập những định chế cho phép công an giết dân dễ dàng như vậy.

Thế thì cái gì trong hệ thống chính trị ở nước ta đã đưa tới những vụ công an giết dân?

Như ai đã nghe chuyện đều biết, Trung Tá Nguyễn Văn Ninh đã gây ra cái chết của ông Tùng khi đang thi hành quyền của một người cảnh sát. Ông có trách nhiệm bảo đảm rằng luật lệ về giao thông được dân chúng tuân thủ. Công an Thủy Nguyên gây ra cái chết của ông Phương trong khi thi hành quyền giam giữ một người, để bảo vệ tài sản của các công dân khác. Những người công an trên biết rằng họ đang thi hành quyền bắt người, do nhà nước giao cho; họ là những người được ủy nhiệm. Họ tin rằng nhà nước mà họ đại diện đã được xã hội ủy nhiệm các quyền đó, để bảo vệ trật tự, an ninh. Các ông công an đã giết người khi nhân danh cả chuỗi những sự ủy nhiệm này. Tất cả các xã hội loài người đều ủy nhiệm những quyền bảo vệ an ninh, trật tự cho nhà nước.

Tất cả các guồng máy nhà nước đều ủy nhiệm cho cảnh sát công an làm những công việc bắt người vi phạm luật để đưa ra tòa án. Ở Việt Nam cũng như ở Bắc Phi. Ngày 17 tháng 12, tại nước Tunisia một sinh viên tốt nghiệp nhưng không có việc làm, anh Mohamed Bouazizi, 26 tuổi, bị một chị công an 45 tuổi tát tai, bắt về bóp, sau khi cãi nhau về tội anh đẩy xe bán rau không giấy phép. Ngày 4 tháng 1, 2011, anh Bouazizi chịu nhục nhà không nổi, đổ xăng tự thiêu. Ngày 6 tháng 6 năm 2010, tại Ai Cập, anh Khaled Said, 28 tuổi, bị công an đánh chết. Hai cái chết đó đưa tới những cuộc nổi dậy lật đổ chế độ độc tài ở hai quốc gia này, rồi lan ra các nước Á Rập khác.

Tại sao ở các nước văn minh chúng ta không thấy cảnh công an giết chết người một cách dễ dàng như ở Tunisia, Ai Cập, và ở nước ta? Chúng ta cần suy nghĩ đến vấn đề Quyền và sử dụng Quyền trong xã hội.

Bao nhiêu người dân Hà Nội đã tới dự đám tang của ông Trịnh Xuân Tùng dù không quen biết. Trong lòng nhiều người chắc cũng phải suy nghĩ về những câu hỏi này: Người dân ủy nhiệm cho nhà nước những quyền nào? Những quyền hành đó có giới hạn hay không? Có định chế nào bảo đảm rằng những giới hạn này được tôn trọng hay không? Tất cả những câu hỏi đó là để trả lời tại sao anh Tùng bị đánh chết. Người dân Hà Nội đã có ai đưa các câu hỏi trên ra thảo luận trước công chúng, trên các mạng lưới hay chưa?

Một bài thơ của Quang Dũng viết về Người Hà Nội kết thúc với hai câu thơ:

“Hàng Gai tay bỏng trục ba càng.

Ðất cũ Thăng Long người lẫm liệt.”

Con người Thăng Long lẫm liệt, không phải chỉ vì biết ôm súng chống ngoại xâm. Con người lẫm liệt phải đặt ra những câu hỏi căn bản về cuộc sống của xã hội mình: Tại sao chúng tôi phải sống mãi như thế này?

Trần Trung Đạo: Khi bài hát trở về

Nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang vừa qua đời tại Mỹ. Để tưởng nhớ ông, xin được post bài viết của nhà thơ Trần Trung Đạo viết về một nhạc phẩm nổi tiếng của NS Nguyễn Đức Quang, nhạc phẩm này cũng gắn liền với các cuộc biểu tình của thanh niên Sài Gòn vào cuối năm 2007.

Nếu phải xếp hạng những bài hát được sinh ra và lớn lên cùng với thăng trầm của đất nước, với thao thức của thanh niên, sinh viên, học sinh, với tâm trạng của những người lính trẻ trong cuộc chiến tranh tự vệ đầy gian khổ ở miền Nam trước đây, tôi tin, Việt Nam quê hương ngạo nghễ của nhạc sĩ du ca Nguyễn Đức Quang sẽ là một trong những bài ca được xếp hàng đầu.

Không giống như một số hành khúc quen thuộc trong giới trẻ trước 1975 như Dậy mà đi của Nguyễn Xuân Tân, Tổ quốc ơi ta đã nghe của La Hữu Vang thiết tha, mạnh mẽ nhưng chỉ giới hạn trong các phong trào sinh viên tranh đấu và ngay khi ra đời đã bị Đảng sử dụng cho mục đích tuyên truyền trong các trường đại học, các đô thị miền Nam, hay Việt Nam Việt Nam của Phạm Duy chan chứa tình dân tộc, kêu gọi người người thương mến nhau nhưng thiếu đi cái hùng khí, sôi nổi của tuổi trẻ, Việt Nam quê hương ngạo nghễ của Nguyễn Đức Quang không dừng lại ở nỗi đau của đất nước mà còn nói lên cả những bi thương, công phẫn, thách đố của tuổi trẻ Việt Nam trước những tàn phá của chiến tranh và tham vọng của con người. Trong vườn hoa âm nhạc Việt Nam, Việt Nam quê hương ngạo nghễ nổi bật lên như một biểu tượng cho khát vọng của một dân tộc đã vượt qua bao nhiêu gian nan khốn khó để tồn tại và vươn lên cùng các dân tộc khác trên mặt đất nầy.

Ta như nước dâng dâng tràn có bao giờ tàn


Đường dài ngút ngàn chỉ một trận cười vang vang


Lê sau bàn chân gông xiềng của thời xa xăm


Đôi mắt ta rực sáng theo nhịp xích kêu loang xoang.

Lời nhạc của Việt Nam quê hương ngạo nghễ tương đối khó nhớ nhưng nhờ cách sử dụng ngôn ngữ trẻ trung, mạnh mẽ, tượng thanh, tượng hình như “tiếng cười ngạo nghễ”, “xích kêu loàng xoàng”, “trên bàn chông hát cười đùa vang vang” hay “Da chân mồ hôi nhễ nhại cuộn vòng gân tươi” đã làm cho Việt Nam quê hương ngạo nghễ trở thành độc đáo, không giống như những bài ca yêu nước khác với những ý tưởng quen thuộc và lời ca phần lớn là lập lại nhau. Việt Nam quê hương ngạo nghễ đẹp tự nhiên như một đoá lan rừng, không mang màu sắc chính trị, không nhằm cổ võ hay biện minh cho một chủ nghĩa nào, không cơ quan nhà nước nào chỉ đạo thanh niên sinh viên học sinh phải hát và bài hát cũng chẳng nhằm phục vụ lợi ích riêng của chính quyền, tôn giáo hay đảng phái chính trị nào.

Trước 1975, từ thành phố đến thôn quê, từ các trường trung học tỉnh lẻ đến đại học lớn như Huế, Sài Gòn, từ các phong trào Hướng đạo, Du ca đến các tổ chức trẻ của các tôn giáo như Thanh niên Công giáo, Gia đình Phật tử, từ các quân trường Đà Lạt, Thủ Đức, Quang Trung, Nha Trang đến các tổ chức, đoàn thể xã hội từ thiện đều hát Việt Nam quê hương ngạo nghễ.

Sau 1975, bài hát theo chân hàng trăm ngàn sĩ quan và viên chức miền Nam đi vào tù. Nhiều hồi ký, bút ký kể lại Việt Nam quê hương ngạo nghễ đã được hát lên, kín đáo hoặc cả công khai, ở nhiều trại tù khắp ba miền đất nước. Trong tận cùng của đói khát, khổ nhục, đớn đau, Việt Nam quê hương ngạo nghễ đã hoá thành những hạt cơm trắng, hạt nếp thơm nuôi sống tinh thần những người lính miền Nam sa cơ thất thế.

Những năm sau đó, bài hát, như tác giả của nó và hàng triệu người Việt khác lên đường ra biển tìm tự do. Việt Nam quê hương ngạo nghễ lại được hát lên giữa Thái bình dương giông bão, hát lên ở các trại tỵ nạn Palawan, Paula Bidong, Panat Nikhom trong nỗi nhớ nhà, hát lên ở Sungai Besi, White Head trong những ngày chống cưỡng bách hồi hương, hát lên ở San Jose, Santa Ana, Boston, Paris, Oslo, Sydney trong những cuộc biểu tình cho tự do dân chủ Việt Nam, hát lên ở các trại hè, trại họp bạn Hướng đạo, các tổng hội sinh viên Việt Nam tại hải ngoại.

Nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang, trong buổi phỏng vấn dành cho chương trình Tiếng Nói Trẻ đã kể lại câu chuyện ra đời của Việt Nam quê hương ngạo nghễ trong âm nhạc Việt Nam: “…Thế bài Việt Nam quê hương ngạo nghễ cũng vậy, nó không phải là một bài ca tôi nghĩ là quá lớn, nhưng lúc bấy giờ khi tôi kết thúc tập Trường Ca vào năm 1965, cuối 1965 hay đầu 1966 gì đó, khoảng thời gian đó, 10 bài trường ca, những bài như Nỗi buồn nhược tiểu, Tiếng rống đàn bò, Lìa nhau, Thảm kịch khó nói v.v. những bài nói về đất nước của mình rất là khổ sở, tôi nghĩ nên kết nó bằng một bài hát có tiếng gọi hùng tráng và tha thiết hơn. Thành ra tôi viết bài Việt Nam quê hương ngạo nghễ một cách rất là dễ dàng. Tất cả những ý đó tôi đem vào hết trong bài hát đó để nó vượt qua cái khốn khó, vượt qua cái quê hương nhỏ bé, nhược tiểu mà trở thành một nước to lớn, và lòng người cực kỳ dũng mãnh. Viết xong bài đó tôi nghĩ chỉ kết thúc tập Trường Ca mà thôi, không ngờ về sau càng ngày đi các nơi càng thấy nhiều người ưa thích bài đó, có lẽ đáp được ước vọng của nhiều người, tôi nghĩ tiếng gọi đáp ứng đúng được tiếng của nhiều người, không riêng gì giới trẻ đâu, cả người lớn tuổi ở các hội đoàn về sau này, rồi đi vào trong quân đội, đi rất nhiều nơi. Thành ra, tôi cho đó là một bài hát tự nó trưởng thành nhưng khi viết tôi chỉ đúc kết cho tập Trường Ca lúc đó mà thôi.”

Thật đơn giản và tự nhiên như thế. Không một ông Bộ trưởng Bộ Chiêu hồi nào đặt hàng hay một ông Tổng ủy trưởng Dân vận nào chỉ thị anh phải viết. Anh viết không phải để thi đua sáng tác hay mong mang về giải thưởng, huân chương. Trong tâm hồn của một nghệ sĩ chân chính, tình yêu nước bao giờ cũng là sự thôi thúc tự nguyện. Anh viết Việt Nam quê hương ngạo nghễ để kết thúc tập trường ca của riêng anh nhưng cũng nối tiếp tập trường ca lớn hơn của đất nước.

Sau ba mươi năm, nhiều nhạc sĩ, ca sĩ đã trở về qua nhiều ngả, trong nhiều tư cách khác nhau, một số tình ca sáng tác trước 1975 đã được nghe lại trong nước, nhưng đây là lần đầu tiên một bài hát đã về lại quê hương qua ngả của trái tim, trở về trong vòng tay nồng ấm của tuổi trẻ Việt Nam.

Bất ngờ và cảm động, một buổi sáng tuần trước, khi đi dạo một vòng qua các blog Việt ngữ, tôi bắt gặp không chỉ những mẩu tin nóng viết vội vàng trên đường phố, những đoạn phim biểu tình vừa mới đưa lên YouTube, những tấm hình ghi lại cảnh xô xát giữa đồng bào, sinh viên với công an, nhưng còn được nghe lại bài hát quen thuộc Việt Nam quê hương ngạo nghễ. Tôi cảm nhận qua lần gặp gỡ đó một niềm vui chung khi có một bản nhạc mà các em sinh viên Việt Nam ở California, Washington DC, Oslo, Paris, Hà Nội, Sài Gòn cùng hăng say hát trong những cuộc biểu tình chống Trung Quốc bành trướng bá quyền mà không cảm thấy ngần ngại, nghi ngờ, xa cách.

Ta khua xích kêu vang dậy trước mặt mọi người


Nụ cười muôn đời là một nụ cười không tươi


Nụ cười xa vời nụ cười của lòng hờn sôi


Bước tiến ta tràn tới tung xiềng vào mặt nhân gian.

Trong số một trăm em đang hát trong nước hôm nay có thể hơn chín mươi em chưa hề nghe đến tên Nguyễn Đức Quang lần nào, và nếu có nghe, có đọc qua bộ máy tuyên truyền của Đảng, cũng chỉ là một “nhạc sĩ ngụy đã theo chân đế quốc”. Biết hay không biết, nghe hay không nghe không phải là điều quan trọng. Điều quan trọng là bài hát đã đáp ứng được ước vọng về tương lai và tình yêu tổ quốc của tuổi trẻ. Tổ quốc, vâng, không có gì lớn hơn tổ quốc.

Văn hoá không phải chỉ là đời sống của một dân tộc mà còn là những gì giữ lại được sau những tàn phá, lãng quên. Việt Nam quê hương ngạo nghễ sau 30 tháng Tư 1975 hẳn đã nằm trong danh sách các tác phẩm “văn hoá đồi trụy” mà Đảng tìm mọi cách để xóa bỏ, tận diệt. Thế nhưng, như giọt nước rỉ ra từ kẽ đá và như bông hoa mọc giữa rừng gai, bài hát đã sống sót, đã ra đi và đã trở về. Để tồn tại, một bài thơ, một bản nhạc cũng phải trải qua những gạn lọc, những cuộc bỏ phiếu công bằng không chỉ của người nghe, người đọc dưới một chế độ chính trị nào đó mà còn của cả lịch sử lâu dài. Bài hát phát xuất từ tình yêu nước trong sáng như Việt Nam quê hương ngạo nghễ sẽ ở lại rất lâu trong lòng tuổi trẻ Việt Nam hôm nay và nhiều thế hệ mai sau.

Là một người thích tham gia các sinh hoạt văn nghệ cộng đồng, bài hát mang tôi về thời trẻ tuổi của mình. Tôi còn nhớ, mùa hè 1973, khi còn là sinh viên năm thứ nhất, Việt Nam quê hương ngạo nghễ cũng là nhạc sinh hoạt chính của trại hè sinh viên toàn quốc quy tụ đại diện sinh viên các trường đại học và cả sinh viên du học về nghỉ hè, do Bộ Giáo dục và Thanh niên tổ chức lần đầu và có lẽ cũng là lần cuối tại trường Thiếu Sinh Quân, Vũng Tàu. Đêm trước ngày chia tay, chúng tôi không ai ngủ được. Ngày mai sẽ mỗi người mỗi ngả, chị về Huế, anh về Đà Lạt, em về Cần Thơ và đa số chúng tôi sẽ trở lại Sài Gòn. Cùng một thế hệ chiến tranh như nhau, khi chia tay biết bao giờ còn gặp lại. Những ngày tháng đó, cuộc chiến vẫn còn trong cao điểm. Mỹ đã rút quân nên máu chảy trên ruộng đồng Việt Nam chỉ còn là máu Việt Nam. Thảm cảnh của “mùa hè đỏ lửa” chưa qua hết. Trên khắp miền Nam, đâu đâu cũng có đánh nhau, đâu đâu cũng có người chạy giặc. Mơ ước của tuổi trẻ chúng tôi là được thấy một ngày đất nước hoà bình, một ngày quê hương không còn nghe tiếng súng. Đêm cuối trại hè, chúng tôi ngồi quây quần thành một vòng tròn rộng quanh cột cờ trường Thiếu Sinh Quân và hát nhạc cộng đồng như để vơi đi những vương vấn, lo âu đang trĩu nặng trong lòng. Bài hát được hát nhiều nhất trong đêm đó là Việt Nam quê hương ngạo nghễ, và khi điệp khúc cất lên cũng là khi chúng tôi hát trong nước mắt:

Máu ta từ thành Văn Lang dồn lại


Xương da thịt này cha ông miệt mài


Từng giờ qua


Cười ngạo nghễ đi trong đau nhức không nguôi.


Chúng ta thành một đoàn người hiên ngang


Trên bàn chông hát cười đùa vang vang


Còn Việt Nam


Triệu con tim này còn triệu khối kiêu hùng.

Những giọt nước mắt của tuổi sinh viên nhỏ xuống xót thương cho dân tộc mình. Tại sao có chiến tranh và tại sao chiến tranh đã xảy ra trên đất nước chúng tôi mà không phải tại một quốc gia nào khác?

Mấy tháng sau, tháng Giêng năm 1974, bài hát Việt Nam quê hương ngạo nghễ đã được hát vang trên đường phố Huế, Đà Nẵng, Sài Gòn, Cần Thơ sau khi Hoàng Sa rơi vào tay Trung Quốc. Những bản tin đánh đi từ Đà Nẵng, danh sách những người hy sinh được đọc trên các đài phát thanh làm rơi nước mắt.

Và hôm nay, ba mươi ba năm sau, trong cái lạnh mùa đông trên xứ người, những lời nhạc Việt Nam quê hương ngạo nghễ từ YouTube phát ra như xoáy vào tim. Tôi lại nghĩ đến các anh, những người đã hy sinh ở Hoàng Sa tháng Giêng năm 1974, ở Trường Sa tháng Ba năm 1988. Các anh khác nhau ở chiếc áo nhưng cùng một mái tóc đen, một màu máu đỏ, một giống da vàng, cùng ăn hạt gạo thơm, hạt muối mặn, cùng lớn lên bằng giòng sữa mẹ Việt Nam, và cùng chết dưới bàn tay hải quân Trung Quốc xâm lăng.

Việt Nam, sau ba mươi ba năm “độc lập, tự do” vẫn chưa thoát ra khỏi số phận nhược tiểu bị xâm lược, vẫn chưa tháo được cái vòng kim cô Trung Quốc trên đầu. Việt Nam có một lãnh hải dài trên ba ngàn cây số nhưng thực tế không còn có biển. Cả hành lang Đông hải rộng bao la từ Hải Nam đến Hoàng Sa và xuống tận Trường Sa đã bị Trung Quốc chiếm. Nếu vẽ một đường cung dọc theo lãnh hải đó, ngư dân Việt Nam chỉ còn có thể đi câu cá ven bờ chứ không thể đánh cá như ngư dân Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan hay các quốc gia khác trong vùng biển Đông. Phía sau tấm bảng in đậm “mười sáu chữ vàng” hữu nghị thắm thiết giữa hai Đảng Cộng sản Việt Nam và Trung Quốc là thân xác của ngư dân Việt Nam trôi bềnh bồng dọc các hải đảo của tổ tiên mình để lại.

Trong suốt dòng lịch sử, hoạ xâm lăng từ phương Bắc vẫn là mối đe doạ thường xuyên. Khác với các thời đại trước đây, cái bất hạnh của Việt Nam ngày nay không phải chỉ là mất đất nhưng mất đất mà không đòi lại được ngay. Cuộc kháng Nguyên lần thứ nhất trong hàng vương tước nhà Trần chỉ có mỗi Trần Nhật Hiệu chủ trương “Nhập Tống” và lần thứ hai chỉ có Trần Ích Tắc và đám hầu tước Trần Kiện, Trần Văn Lộng, Trần Tú Viên chủ trương “Hàng Nguyên” nhưng ngày nay, về mặt lập trường quan điểm, Việt Nam có đến 14 Trần Ích Tắc và 160 Trần Kiện. Trận đụng độ giữa Việt Nam và Trung Quốc diễn ra tại Trường Sa năm 1988 theo tác giả Daniel J. Dzurek trong biên khảo Xung Đột Trường Sa: Ai có mặt trước? (The Spratly Islands Dispute: Who’s on First?) chỉ kéo dài vỏn vẹn 28 phút và Việt Nam chịu đựng hầu hết thương vong. Với một giới lãnh đạo tham quyền cố vị và sự chênh lệch quá xa về kỹ thuật chiến tranh như thế, cuộc đấu tranh giành lại hai quần đảo sẽ vô cùng khó khăn.

Dù sao, tuổi trẻ Việt Nam, khác với các thế hệ Tân Trào, Pác Bó trước đây, thế hệ Hoàng Sa, Trường Sa ngày nay có nhiều cơ hội tiếp xúc, học hỏi và so sánh giữa chế độ các em đang sống với các tư tưởng tự do dân chủ, khoa học kỹ thuật tiên tiến, nhờ đó, hy vọng các em sẽ có những chọn lựa đúng cho mình và cho đất nước phù hợp với dòng chảy của văn minh nhân loại.

Trong cuộc chiến Việt Nam dài mấy mươi năm Đảng đã sản xuất ra không biết bao nhiêu bài hát, bài thơ kích động lòng yêu nước nhưng tại sao các em không đọc, không hát nữa? Như một độc giả trong nước đã trả lời, đơn giản chỉ vì chúng nhạt nhẽo. Ý thức sâu sắc đó đã được thể hiện không chỉ trong khẩu hiệu các em hô mà ngay cả trong những bài hát các em hát. Sau những Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng, Dậy mà đi, Nối vòng tay lớn của những ngày đầu phong trào, các bạn trẻ trong nước đã đi tìm những nhạc phẩm nói lên lòng yêu nước trong sáng, tích cực, không bị ô nhiễm, chưa từng bị lợi dụng và họ đã tìm được Việt Nam quê hương ngạo nghễ.

Ta như giống dân đi tràn trên lò lửa hồng


Mặt lạnh như đồng cùng nhìn về một xa xăm


Da chan mồ hôi nhễ nhại cuộn vòng gân tươi


Ôm vết thương rỉ máu ta cười dưới ánh mặt trời.

Mỗi khi nhắc đến những khó khăn đất nước, chúng ta thường nghe đến những “bất hạnh”, “nỗi đau”, “tính tự ti mặc cảm”, vâng đó là một thực tế hôm nay, thế nhưng dân tộc Việt Nam “vốn xưng nền văn hiến đã lâu, nước non bờ cõi đã chia, phong tục Bắc Nam cũng khác” như Nguyễn Trãi khẳng định, không phải chỉ biết đau, biết tự ti mặc cảm mà thôi nhưng từ những nỗi đau đã biết lớn lên bằng tự hào và kiêu hãnh làm người Việt Nam. Chỗ dựa tinh thần của tuổi trẻ Việt Nam hôm nay không có gì khác hơn là lịch sử. Không thể làm nên lịch sử mà không cần học lịch sử. Lịch sử sẽ là vũ khí, là hành trang trong hành trình tranh đấu cho một nước Việt Nam mới, cũng như để xây dựng một Việt Nam tươi đẹp sau nầy.

Ta khuyên cháu con ta còn tiếp tục làm người


Làm người huy hoàng phải chọn làm người dân Nam


Làm người ngang tàng điểm mặt mày của trần gian


Hỡi những ai gục xuống ngoi dậy hùng cường đi lên.

Việt Nam quê hương ngạo nghễ như giọt nước mắt bi tráng của tuổi trẻ Việt Nam ngày nào nhỏ xuống trên quê hương chiến tranh khốn khổ, đã bốc thành hơi, tụ thành mây và sau bao năm vần vũ khắp góc bể chân trời đã trở về quê hương qua ánh mắt của em, qua nụ cười của chị, qua tiếng hát của anh, hồn nhiên và trong sáng. Từ “vết thương rỉ máu” của một dân tộc đã từng bị nhiều đế quốc thay phiên bóc lột, lợi dụng và hôm nay còn đang chịu đựng trong áp bức của độc tài đảng trị, Việt Nam quê hương ngạo nghễ cất lên như một lời khuyên, hãy sống và hãy vững tin vào lịch sử, sẽ có một ngày, sẽ có một ngày.

Trần Trung Đạo

Việt Nam: Nợ ngập đầu, dân nghèo đành bị bỏ rơi.

Lo ngại về nợ nước ngoài khá lớn của Việt Nam thường được nhìn nhận về ảnh hưởng lên khả năng của chính phủ và các doanh nghiệp tiếp tục vay mượn nợ với một lãi suất phù hợp.

 

Nhưng cuối cùng thì người dân nghèo luôn luôn là đối tượng bị thiệt hại, trừ phi Việt Nam thực hiện “quyết tâm” ngay tức khắc kiềm chế thâm hụt thương mại và ngân quỹ, cũng như chấm dứt vay nợ nước ngoài tăng cao hơn nữa, cố vấn của LHQ tại Hà Nội cảnh báo vào hôm thứ ba.

 

Cephas Lumina, luật sư nhân quyền người Zambia, và là chuyên gia độc lập của LHQ chuyên nghiên cứu về ảnh hưởng của nợ nước ngoài với các vấn đề nhân quyền, nói với phóng viên rằng nếu chính phủ vẫn tiếp tục mượn tiền từ nước ngoài nhằm bù vào số lượng thâm hụt thương mại và ngân quỹ đó, thì “áp lực sẽ gia tăng giữa việc tìm cách trả nợ và đầu tư vào an sinh xã hội.”

“Chính phủ cho rằng sẽ nỗ lực hết sức để không phải cắt giảm chi tiêu cho an sinh xã hội”, ông nói. Nhưng, nếu nỗ lực không thành, thì các dịch vụ y tế, giáo dục, phúc lợi xã hội sẽ bị ảnh hưởng nặng nề.

 

Một phần nguyên nhân là do sự thiếu minh bạch trong vấn đề tài chính của Việt Nam, Lumnia nói, sau khi hoàn tất chuyến công du 9 ngày tới đất nước Đông Nam Á này.

 

Sau khi gặp gỡ với các bộ ngành, đoàn thể, các viện nghiên cứu và tổ chức quốc tế như IMF, Lumnia cho rằng ông đã nhận được những thông tin lẫn lộn về mức độ nợ nước ngoài của Việt Nam, vốn được chính phủ thông báo là chiếm 42.2% GDP hồi năm ngoái.

 

Lumnia lưu ý rằng nợ nước ngoài có thể không bao gồm nợ vay từ các tập đoàn nhà nước, mà theo ông chính phủ phải có “trách nhiệm liên đới” - dù chính phủ đã phủ nhận và từ chối giúp trả nợ giùm Vinashin, một công ty đóng tàu của nhà nước, cho các nhà đầu tư nước ngoài, trừ trường hợp ngược lại (tức Vinashin trả nợ cho chính phủ).

Lumina cho hay, tình hình tài chính của chính phủ có thể đối mặt với một áp lực khác từ số tiền kiều hối, chiếm khoảng 8% GDP năm 2010, thu hẹp lại do nhiều công nhân xuất khẩu lao động (và Việt kiều) tại những nước mà tình hình khủng hoảng kinh tế vẫn còn ảnh hưởng sâu sắc, sẽ gửi tiền về ít hơn.

 

Như một phần của những biện pháp được đưa ra nhằm tập trung lại về mặt ổn định của chính sách hơn là chú tâm vào con số phát triển, chính phủ Việt Nam tuyên bố muốn giảm thâm thủng ngân sách từ 6% từ năm ngoái xuống còn 5% vào năm nay.

 

Nguyễn Đình Cung, viện phó Viện Nghiên cứu Quản lí Kinh tế TW, trao đổi tại một diễn đàn doanh nghiệp vào thứ hai đã cho hay chính phủ cần phải thực hiện nhiều hơn nữa để chứng tỏ với các nhà đầu tư về quyết tâm thắt chặt ngân khố của mình.

Một tín hiệu từ chính phủ vào hôm qua đã cho thấy nỗ lực hạn chế chi tiêu vào hôm thứ ba, qua việc tăng giá nhiêu liệu lần thứ 2 trong vòng hai tháng liên tiếp, với giá xăng tăng 10% và dầu diesel tăng 15%, có hiệu lực ngay lập tức.

 

Bộ tài chính, vốn đang trợ cấp giá xăng dầu, nói việc tăng giá lần này là do tình hình giá xăng dầu trên thế giới tăng cao vì những bất ổn đang diễn ra tại Trung Đông và Bắc Phi.

 

Giá xăng dầu cao hơn có thể góp phần ‘thổi’ lạm phát tăng cao, hiện đang ở mức 13.9% trong tháng 3 so với cùng kỳ năm ngoái. Tuy nhiên các nhà kinh tế học giải thích việc tăng giá xăng theo kịp giá thế giới là cần thiết nếu điều đó giúp kiểm soát tốt hơn chi tiêu chính phủ.

 

Dù sao, tất cả những việc đề cập ở trên đều không giúp ích gì cho mấy với những người dân có thu nhập thấp, mà hiện nay đang mang nhiều gánh nặng vì chính sách thay đổi. Chính phủ bắt buộc phải chọn một trong hai giữa cắt giảm nợ, hoặc hỗ trợ an sinh, phát triển xã hội; nếu ‘tham’ cả hai thì sẽ ‘thâm’.


Nguồn: http://blogs.ft.com/beyond-brics/2011/03/30/vietnam-debt-woes/