Thứ Hai, 21 tháng 12, 2009

Của cõi Trời và Người từ đêm Giáng Sinh

“Vương quốc của cõi Trời cũng giống như chất men mà người phụ nữ kia lấy trộn vào đấu bột làm cho tất cả phải bừng dậy lên.” (Luke 13:20-21)

Glenn Tinder, trong một luận đề mang tên, "Can We Be Good Without God?" (Chúng ta có thể tốt lành nếu không có Thượng đế?) đăng trong tạp chí Atlantic ở Hoa Kỳ cách đây hơn mười ba năm, đã đặt một câu hỏi lớn về giá trị của xã hội thế giới Tây Phương.  Tinder lý luận rằng con người Tây Phương càng ngày càng quá hãnh diện về chính mình để rồi tách rời khỏi ý thức Thượng đế trong tiến trình hiện hữu cá nhân. Ông nói rằng cái vinh quang mà nhân loại đang có được là từ Thượng đế.  Sự vinh hiển được làm người, như là một mầu nhiệm quý báu - như trong kinh Phật (Pháp Hoa) nói đến - phải được tự mỗi cá nhân xác nhận và khơi sáng trong sự chiêm nghiệm về Thượng đế và sứ mệnh của cuộc đời.  Giá trị tối thượng của con người nằm trong tương lai khi con người tìm ra và trở về với Thượng đế. Ý thức được giá trị của chính mình nằm trong tương lai là định mệnh của nhân loại.  Thượng đế, do đó, là nơi Trở về - một thể tính Chân thức vĩnh hằng - nơi có sự sống đời đời, không bi vọng.


Theo Tinder, chúng ta phải biết phân biệt giữa định mệnh (destiny) và số phận (fate). Số phận chỉ nói lên được bản chất đầy thảm họa và đau khổ của hiện hữu và nhấn mạnh đến tính chất tạm thời và vô thường của cuộc sống. Trong khi đó, định mệnh là một tiến trình có chủ đích mà sự sống là chuyến tàu của tâm thức nhằm mở tung cánh cửa mang ánh sáng đến cho con người giác ngộ được bản lai diện mục của chính mình. Ðịnh mệnh là gốc rễ của số phận. Ðịnh mệnh là chủ nhân, vừa là ân huệ, và cũng là tác giả của vở bi kịch của đời sống tâm linh.  Con người có một ngu xuẩn lớn: phí phạm số vốn của định mệnh khi hoang phí cuộc đời vào sự trốn tránh chính mình trong sự say sưa với số phận.  Ta tự đánh mất sự sống bằng cách đóng vai kẻ cắp vô ý thức đối với giá trị sinh hữu mà định mệnh giao phó để rồi chấp nhận một số phận vô lý, tầm thường, và nhỏ bé.

Những gì mà Tinder nói thể hiện được tinh hoa của nội dung giáo lý Phật giáo và Thiên Chúa giáo cả hàng ngàn năm nay.  Trong truyền thống của tam giáo Abraham (Do Thái, Thiên Chúa và Hồi giáo) thì Adam, sau khi được ân tặng món quà tự do ý chí (free-will), đã trở nên hãnh diện quá đáng về chính mình.  Adam là ảnh tượng và là khuynh hướng thú vật tự nhiên của con người.  Khi thiếu sự khiêm nhường và hiểu biết cần thiết, mỗi Adam trong từng cá nhân tự cho mình là có khả năng làm chủ cuộc đời và giá trị liên hệ.  Từ đó, vì thái độ hãnh tiến, hắn đánh mất những kinh nghiệm tốt lành và tâm thức hướng thượng mà con người vốn có.  Hắn, vì thế, không còn bất tử.  Vì khi cái chết đã trở thành tối hậu - nhưng vô nghĩa - chúng ta không còn suy tưởng về lý do và giá trị huyền nhiệm của cuộc đời.  Và rốt cuộc, đời sống trần gian trở nên là cái chỉ tiêu độc tôn mà hắn theo đuổi.  Với cuộc đời này làm cứu cánh duy nhất và cao nhất, cá nhân trở nên nô lệ cho xúc động và tình cảm tiêu cực. Con người với tất cả những bất an và vọng tâm, chỉ còn có biết ái dục ngã mạn, tham vọng vật chất, và khoái lạc thân xác - mà tất cả cọng lại là một chiếc còng lớn, vô hình giam hãm hắn vào trong một nhà tù khốn khổ.

Khi chỉ còn biết đến trần gian và cuộc đời thân xác, con người hôm nay có cảm tưởng rằng mình đã thoát khỏi võng lưới thần quyền của tôn giáo quá khứ - và được tự do.  Tuy nhiên, tự do ở đây chỉ có đồng nghĩa với những chọn lựa giới hạn trong hiện tại với đời sống vật thể, không còn gì hơn và khác.  Trong điều kiện chọn lựa giới hạn này, hắn bị ngự trị bởi ham muốn vật chất và ái dục vô thường. Và rồi tất cả khả năng và ý lực tâm linh chỉ để phục vụ cho một chu vi hạn hẹp của cái ta nhỏ bé và chỉ để gia tăng cái gia vị tầm thường của cơ sự làm người bằng khoái lạc của cái ta.  Nhân loại có thể được thoát ra khỏi quá khứ, nhưng lại bị đi vào một nô lệ tính bi thảm và tiêu cực hơn: sự độc tài chuyên chế của dục vọng và ngã mạn. 

Khi ý thức hướng thượng và siêu nhiên không còn, con người mang một tham vọng khác: chủ nghĩa "nhân chủ".  Nhân chủ chỉ có biết đến con người khi mà chân lý đầu tiên và cuối cùng của nó là nhân loại.  Từ Protagoras, "Con người là thước đo cho tất cả" đến Marx, "Gốc rễ của con người là con người chính nó", hành trình của tham vọng nhân chủ hoàn tất bằng một thất bại hiển nhiên trong bản tính văn minh vật chất Tây phương, và ngày nay, cả thế giới.  Nhân chủ phải thất bại vì nó là một con bạc gian lận và trá hình cho sự hãnh diện quá đáng về khả năng tri kiến thực nghiệm, chấp nhận khuyết điểm lịch sử để xem sai lầm và thoái hóa như là biện minh cho tự do làm người.  Nhân chủ phủ nhận năng thức tâm tưởng nguyên thuỷ của cá nhân là hướng thượng và giải thoát - một ý chí vật lộn và tranh đấu với chính mình để hiện thực hóa Thượng đế tính, hay tâm Phật, vùi sâu trong mỗi cá nhân.  Con người có thể phủ nhận một hình ảnh Thượng đế ngoại thân, như là một huyền thoại văn hóa, nhưng đã trở nên vô ý thức khi cho rằng không có một thực tính huyền nhiệm nào ngoài cái ta trống rỗng, trơ trọi và bất an này.  Thượng Ðế, hay là Chân thức, cho dù không thể chứng minh bằng thực nghiệm, cũng là một chủ thể tối cần cho tâm thức, như Kant đã quan niệm, khi mà mệnh lệnh đạo lý của hiện hữu đòi hỏi trí năng phải giả định (postulate) đến một Siêu thể.  Khi từ chối khả thể huyền nhiệm của con người, chủ nghĩa nhân chủ là một chiếc chổi thô lậu nhằm cố quét bỏ những dằn vặt sinh hiện vốn tiềm tàng trong mỗi cá nhân.  Nhân chủ từ chối lối thoát ra khỏi số phận bần kiệt của kiếp người bằng cách gia tăng cường độ bi đát để cho con người thưởng thức cái ảo giác tự do của ngã kiến và tham vọng độc tôn.  Nhưng cho dù vui chơi với chính ta trong tất cả những náo nhiệt tạm thời và vô vọng, bất định hướng, con người có lúc cũng phải mệt mỏi, để rồi mỗi cá nhân lại cũng phải trở về với chính mình, đối diện với khoảng trống tâm linh, và nhìn lại cái ta này thêm lần nữa.

***


Cách đây 2010 năm, một hài nhi mang tên Jesus ra đời.  Trong đêm đông lạnh giá, trong hang đá quạnh hiu, chỉ có làn hơi ấm của thú vật và ngôi sao sáng trên trời. Ðây là sự ra đời của tính Chúa, hay là Phật tính, trong mỗi chúng ta - giữa cái hoang dã lạnh lùng của cuộc sống thân xác và thế gian. Ðêm đó là đêm im lặng. Ðêm ấy là lúc mà con người phải trở lại chính mình. Ðêm ấy là lúc cái Thánh tính của Chân thức tiềm tàng phải được đánh thức. Ðó là lúc con người đang làm đúng việc cho cơ sự làm người: khai sáng cái tinh hoa nhân tính bị vùi quên bởi cuộc đời và thân xác.  Chúa Jesus giáng sinh, cũng như Phật Thích Ca Mâu Ni đản sinh, là hai tia ánh sáng biểu tượng nhằm nhắc nhở chúng sinh về một con đường khác.  Cả hai đều là tín hiệu của một cõi, của hai tiếng chuông đánh thức nhắm về một nhân loại đang ngủ quên trong vô minh và phiền não.

Thế nhưng, ở Tây phương ngày nay, chúng sinh đánh mất bàn thờ bên ngoài, và từ chối cái tinh hoa của tín hiệu Giáng sinh bên trong nội tâm.  Càng đến ngày lễ Giáng sinh, con người càng say sưa vật lộn với nhu cầu mua sắm, tiệc tùng để phục vụ thế gian và cái ta, càng đắm chìm sâu vào chiếc áo thế gian sặc sỡ, để rồi sáng hôm sau Giáng Sinh, khoảng trống tâm linh của mỗi chính họ lại trở về.  Cõi trời đã không còn hiện diện trên thế gian khi những tín hiệu ánh sáng siêu việt không còn là chất men để đánh thức đấu bột tinh thần.  Tất cả chúng sinh vẫn còn đang ngủ say trong giấc mơ làm người giới hạn và chật hẹp.  Đâu còn là những hồi chuông thanh cao trong cõi thế gian náo nhiệt?

Khi Thượng đế kêu người, như tiếng chuông vang lên trong tâm thức, thì hãy đừng trả lời như Adam đã, "Thưa, tôi nghe, nhưng tôi sợ lắm, vì tôi đang trần truồng.  Và tôi phải trốn".  Vì khi không có đời sống tâm linh thì dù có mặc bao nhiêu chiếc áo thế gian bạn vẫn trần truồng trong mắt của Thượng đế.  Hãy ý thức được ý nghĩa của Giáng sinh trong chiếc áo tình thương, trong chiếc áo tri thức sâu thẳm, trong tấm lòng nhân ái. Ðể biết chính mình. Ðể được lớn lên. OM, AMEN.

Nguyễn Hữu Liêm

© Đàn Chim Việt Online

Talawas bị tin tặc tấn công

 

ĐỨC - Trang web “Talawas”, diễn đàn và Blog có tiếng của giới trí thức và văn nghệ do nhà văn Phạm Thị Hoài cùng nhiều cộng sự khởi xướng tại Đức vừa bị tin tặc tấn công.

Lúc 11 giờ tối 20 tháng 12, giờ Callifornia khi vào địa chỉ www.talawas.dewww.talawas.org người đọc chỉ thấy trang trắng và lời thông báo 'Vì lí do kỹ thuật, Talawas ngừng hoạt động vô thời hạn.'

Sáng 21 tháng 12, giờ California, dòng chữ nói trên đã bị xóa và thay bằng thông báo của Ban Biên Tập về việc bị tin tặc phá hoại. Nhưng dường như chỉ ít phút sau dòng thông báo biến mất và độc giả không còn vào được trang này.

Trả lời phỏng vấn của Đài BBC Việt ngữ, nhà văn Phạm Thị Hoài, Tổng biên tập Talawas cho biết, “trục trặc xảy ra vào sáng ngày 21/12, hoàn toàn không có dấu hiệu nào khác thường trước đó.”

Theo nhà văn Phạm Thị Hoài, 'việc trang web bị tấn công có thể phần nào liên quan tới các vụ xử người bất đồng chính kiến sắp diễn ra - gồm vụ Lê Công Định và Nguyễn Tiến Trung.'

BBC Việt ngữ nói rằng, “Những người phụ trách kỹ thuật của Talawas chưa có thông tin cuối cùng nhưng nói họ có thể khôi phục lại kho bài vở và tư liệu.”

Nhà văn Phạm Thị Hoài nói với BBC, “hy vọng Talawas có thể hoạt động trở lại trong ngày lễ Giáng sinh.”

Diễn đàn điện tử Talawas tháng 11 năm ngoái tuyên bố tạm đóng cửa sau bảy năm tồn tại để chuẩn bị cho một hình thức mới.

Tháng Ba năm nay, trang web này tái ra mắt như một diễn đàn hàng ngày, với sự tham gia thường xuyên của những blogger cố định, cùng khách mời, và thu hút độc giả tranh luận trên blog.

Trong vòng một tuần vừa qua, một trang web khác là “Bauxite Việt Nam” (www.bauxitevietnam.info) cũng bị tin tặc đánh phá và vừa mở trở lại sau một tuần để sửa chữa.

“Bauxite Việt Nam” cho biết họ “Luôn bị tấn công và theo dõi 24/24”.

Những người chủ trương trang web nói, “Từ khi ra đời đến nay, trang Bauxite Việt Nam đã bị đánh phá ác liệt đến không dưới 5 lần, bởi những nhóm người lạ mặt.”

Những người “lạ mặt” ở đây, theo “Bauxite Việt Nam”, rằng “Không ai dám chắc đây là một nhóm vì họ đánh bằng nhiều cách.”

Cách đánh phá của những người “lạ mặt” ở đây là, “Có khi họ xâm nhập trang quản trị mạng và thay đổi hẳn phần hình ảnh trong một bài nào đó bằng hình ảnh của hải quân Trung Quốc. Có khi họ khống chế để bạn đọc không tài nào vào được trang chủ, biến trang chủ thành trang trắng. Lại có khi họ thay đổi mật mã khiến anh chị em biên tập viên “mất dấu”. (KN)


Chủ Nhật, 6 tháng 12, 2009

Nhà văn Phạm Ðình Trọng giải thích lý do bỏ Ðảng: ‘Ðảng ngày càng tiến sâu vào sai lầm’

Trả thù người miền Nam khiến ‘đất nước kiệt quệ’

Lữ Tống (riêng cho Người Việt)

LTS: Mới đây, nhà văn Phạm Ðình Trọng công khai từ bỏ đảng tịch Ðảng Cộng Sản Việt Nam sau gần 40 năm tham gia sinh hoạt. Nhà văn Phạm Ðình Trọng cũng là một thiếu tá Quân Ðội Nhân Dân Việt Nam, từng là cây viết của Binh Chủng Thông Tin Liên Lạc, sau đó về tạp chí Văn Nghệ Quân Ðội. Ông là học viên khóa 1 trường viết văn Nguyễn Du, làm biên kịch cho xưởng phim Quân Ðội và có nhiều sáng tác đã được xuất bản. Lữ Tống có cuộc phỏng vấn đặc biệt với nhà văn, thiếu tá quân đội Phạm Ðình Trọng để tìm hiểu thêm lý do khiến ông đi tới quyết định này. Người Việt xin giới thiệu cùng độc giả sau đây.

-Lữ Tống: Thưa ông, xin cảm ơn thời gian mà ông dành cho chúng tôi trong cuộc phỏng vấn này. Trước nhất xin được hỏi, là một đảng viên 40 tuổi Ðảng, thời gian có thể kể là dài, đủ để đặt niềm tin vào một việc gì đó so với cả một đời người. Xin ông cho biết tại sao cuối cùng ông quyết định từ bỏ Ðảng, tức là từ bỏ niềm tin mà ông đã đặt vào?

-Nhà văn Phạm Ðình Trọng: Tôi là Phạm Ðình Trọng, nhà văn, đảng viên Cộng Sản lớp Hồ Chí Minh từ ngày 19 Tháng Năm, 1970. Từ lúc tự nguyện tham gia hàng ngũ cộng sản, cho đến khi tự rút ra khỏi đảng chỉ thiếu vài tháng là đủ 40 năm; cả một quá trình chuyển biến trong tôi. Ðây là sự thay đổi về nhận thức, từ nhận thức bằng tình cảm chuyển dần sang nhận thức bằng lý trí. Nhận thức này đi cùng với nhận thức về quá trình chuyển biến của chính đảng Cộng Sản, từ ý chí vì dân vì nước trong giai đoạn ban đầu, đã chuyển sang sang ý chí chỉ vì sự tồn tại của đảng vào ngày hôm nay.

Trong lúc cả nước còn nghèo, thậm chí có nơi còn đói, còn phải nhờ vào thế giới giúp đỡ, thực tế vẫn tồn tại các quan chức, đảng viên giàu có vượt cả sự tưởng tượng của người dân. Có đảng viên mang cả triệu đô la đi đánh bạc và sống sa đọa nhưng ở chi bộ họ vẫn được xét là đảng viên “bốn tốt!” Bên cạnh đó, những việc hồi gần đây cho thấy đảng đang tiến ngày càng sâu vào những sai lầm và không có dấu hiệu gì thay đổi mặc cho nhiều đảng viên lẫn trí thức đưa ra hàng trăm kiến nghị yêu cầu đảng tự sửa chữa các lỗi lầm từ trong quá khứ và đang kéo dài mãi tận ngày nay.

-Lữ Tống: Ông có thể đưa ra một vài dẫn chứng cái mà ông gọi là sai lầm tồn tại và vẫn kéo dài?

-Phạm Ðình Trọng: Ðấy là chuyên chính vô sản đã gây ra Cải Cách Ruộng Ðất, Cải Tạo Công Thương Nghiệp Tư Bản Tư Doanh. Ðấy là các vụ án chưa bao giờ công khai ra trước ánh sáng công lý, như vụ án Nhân Văn Giai Phẩm, vụ án Xét Lại Chống Ðảng, đã chà đạp lên số phận bao người trung thực, tài giỏi, gây nỗi kinh hoàng cho dân tộc, gây thiệt hại vô cùng to lớn cho đất nước. Ðấy là những cuộc bắt bớ, đấu tố đang diễn ra như cuộc cải cách ruộng đất kinh hoàng năm nào vẫn đang âm thầm tái diễn đến tận hôm nay! Ðấy là những cuộc đàn áp người tranh đấu cho dân chủ, tức là tranh đấu cho quyền lợi nhân dân, nhưng đảng lo sợ và đảng đã đàn áp họ thẳng tay.

Còn về sự kiện năm 1975, những người sáng suốt đều nhìn thấy đây không phải là chiến thắng của ý thức hệ Cộng Sản. Nếu đảng biết đặt dân tộc lên trên, đất nước sẽ có một tiềm lực vô cùng to lớn. Cơ sở vật chất kỹ thuật và lực lượng lao động cao cấp còn ở lại miền Nam là một vốn quí, một bệ phóng thuận lợi cho nền kinh tế nước nhà nhưng đảng đã không sử dụng tiềm lực này mà ngược lại đã tiêu diệt thẳng tay bằng nhiều cách, khiến cho đất nước kiệt quệ cả nhân lực lẫn cơ sở vật chất.

-Lữ Tống: Thưa ông, có người nói đó là “tâm lý chung,” tức là, hành động tịch thu, trả đũa sau bao nhiêu năm chiến tranh?

-Phạm Ðình Trọng: Ðảng đã giành hết vinh quang về cho đảng. Người cộng sản trở nên kiêu ngạo, tự mãn, và càng tự tin vào tín điều cộng sản! Ðảng say sưa đấu tranh giai cấp! Ðảng cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh! Ðảng hủy hoại khối lượng lớn của cải, làm tan hoang những cơ sở vật chất của một nền sản xuất công nghiệp tương đối phát triển! Ðảng gây hận thù dân tộc, đẩy hàng vạn người từng tham gia với chính quyền cũ vào những trại cải tạo, gây chia rẽ, ly tán trong lòng dân tộc! Thời cơ mất đi! Tiềm lực vô cùng quý giá để phát triển đất nước cũng mất đi! Ðất nước bị đẩy đến tận cùng quẫn bách.

Nỗi đau ly tán của dân tộc Việt Nam còn âm ỉ, nhức nhối đến hôm nay là hậu quả tất yếu của kiên trì tín điều Cộng Sản đưa giai cấp lên trên dân tộc, là trách nhiệm không thể chối bỏ của đảng Cộng Sản.

-Lữ Tống: Ông đưa ra nhận định về năng lực lãnh đạo, với ý cho rằng đó là một trong những nguyên nhân chủ yếu khiến đất nước bị mất dần đường biên giới. Xin được nghe chi tiết hơn?

-Phạm Ðình Trọng: Tôi cho là lãnh đạo đảng ở cấp cao không có sự nhạy bén, năng động. Không có sự mẫn cảm và sáng láng của trí tuệ và tài năng tạo ra bước ngoặt cần có cho dân tộc. Ngược lại, đảng vẫn kiên trì với những tín điều cộng sản. Những người lãnh đạo đảng ở cấp cao đã có những nhượng bộ, thỏa hiệp để Trung Quốc vạch lại biên giới, phân chia lại vùng biển, chiếm đất, chiếm biển của ta. Trong thư ngỏ gửi Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng vào ngày 3 Tháng Ba, 2009, tôi đã dẫn chứng về việc mất đất mất biển. Những hợp đồng kinh tế dễ dãi, ưu ái dành cho Trung Quốc. Dự án bauxite gây lo lắng cho cả dân tộc về môi trường, văn hóa, lẫn an ninh quốc phòng. Quan trọng hơn hết, là đảng không lắng nghe sự góp ý chân thành của những người trí thức. Ðảng luôn tuyên bố là vì lợi ích dân tộc nhưng trong dự án bauxite tôi cho rằng là vì lợi ích của ai kia chứ không phải cho dân tộc như đảng nói.

-Lữ Tống: Ông từng viết “Ăn Mày Dĩ Vãng,” nhằm chống lại những điều mà ông gọi là sử dụng tư tưởng Hồ Chí Minh một cách giả dối, thần thánh hóa lãnh tụ. Xin ông chia sẻ thêm?

-Phạm Ðình Trọng: Trong đời sống chính trị của nước ta hiện nay, từ ngữ có tần số sử dụng cao nhất là từ Hồ Chí Minh. Thần thánh hóa Hồ Chí Minh, đảng Cộng Sản Việt Nam luôn luôn nói đi theo con đường Hồ Chí Minh đã chọn, rầm rộ học tập tư tưởng đạo đức ấy. Trong bài viết “Ăn mày dĩ vãng - Thực Chất Cuộc Vận Ðộng Học Tập Tư Tưởng Ðạo Ðức Hồ Chí Minh,” tôi đã thẳng thắn nêu ra sự làm trái đó.

-Lữ Tống: Bài viết ấy, theo dư luận, đã gây khó khăn cho ông rất nhiều phải không, thưa ông?

-Phạm Ðình Trọng: Trong cuộc họp vào ngày 13 Tháng Mười Một, 2009, Ðảng ủy nơi tôi sinh hoạt đã kết luận bài viết của tôi là “phủ định chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đã thể hiện rõ rằng tôi không còn trung thành với Ðảng, với tổ quốc Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa, đã xuyên tạc, bôi nhọ hình ảnh lãnh tụ Hồ Chí Minh.”

-Lữ Tống: Ông suy nghĩ về những kết án này như thế nào?

-Phạm Ðình Trọng: Ðó là kết luận áp đặt, khiên cưỡng, thiếu thiện chí với tôi và né tránh, không đủ dũng khí nhìn vào sự thật.

-Lữ Tống: Ông có tâm sự gì muốn chia sẻ thêm với chúng tôi?

-Phạm Ðình Trọng: Tôi xin nói thêm ba điều như thế này. Thứ nhất, đây không phải là hành động chống đối đảng Cộng Sản. Thứ hai, về hình thức thì việc từ bỏ Ðảng Cộng Sản, nếu xét theo vận động cơ học thì đây là việc làm bình thường của bất cứ tổ chức nào. Có vào thì phải có ra, rất bình thường. Thứ ba là bản chất sự việc, ra khỏi đảng là thức tỉnh của nhận thức, sự thức tỉnh này không phải chỉ riêng cá nhân tôi mà nó mang tính thời cuộc. Thời này tôi nghĩ là thời của tự thức tỉnh. Có rất nhiều anh em lớp trước hay cùng lứa với tôi, đều có chức vụ đại tá, thượng tá cả, và họ đã từ khước việc sinh hoạt đảng sau khi về hưu tại nơi các anh ấy sống bằng cách không nộp giấy sinh hoạt đảng cho các tổ chức đảng tại địa phương. Giống như các anh ấy, chúng tôi đều thấy là có sự thất vọng và hụt hẫng vô cùng to lớn. Vì thế tiếng nói từ bỏ đảng của tôi không phải là tiếng nói lẻ loi hay duy nhất, mà là một trong những tiếng nói chung của rất nhiều người như tôi mà thôi.

-Lữ Tống: Xin cám ơn về thời gian ông dành cho chúng tôi.

Nguồn: Người Việt Online

Thứ Hai, 30 tháng 11, 2009

Ngày của những cơn lũ cuồng Những con quỷ ngồi cười trên bàn nhậu/ Núi rừng bật gốc/ Sông khô suối cạn/ Có làm sao đâu/ Có làm sao đâu mà than khóc/ Lũ ở trên cao — sao lụt lội trong lòng? [thơ nguyễn tấn cứ]

Ngày của những bóng ma

Những người sống đang chết
Trên những ngã tư đường đèn xanh đỏ
Trong những công sở lạnh
Trong những căn nhà hoang
Khuya lơ giấc ngủ
Chết hết một ngày
Chết hết một đời

Ngày của những con quỷ
Vàng rực nỗi buồn
Nỗi buồn bò ra từ sách đỏ
Nghị quyết nói về sự tuyệt chủng
Con người còn thua một . . . con cọp

Con người được sinh sản từ những cuộc họp
Từ hang ổ của bầy rắn
Lúc nhúc phì phì nọc độc
Con người thành vật tế thần
Thành mồi ngon cho ác thú

Ngày của những cơn lũ cuồng
Những con quỷ ngồi cười trên bàn nhậu
Núi rừng bật gốc
Sông khô suối cạn
Có làm sao đâu
Có làm sao đâu mà than khóc
Lũ ở trên cao — sao lụt lội trong lòng?

Lại một ngày nắng lạnh
Ngọn bắc phong trở mình rét mướt
Ở đâu đó hội hè
Nghìn năm vui quá
Cho chúng tôi vui lây
Chút hạnh phúc làm người!

nguyễn tấn cứ

http://damau.org/archives/10133

Thứ Tư, 18 tháng 11, 2009

Lấy tiền nhân dân ăn chơi xa hoa

VNEXPRESS hôm nay đưa tin về Hội nghị đói nghèo do Liên Hợp Quốc tổ chức dựa theo tin dịch lại từ hãng thông tấn AP. Qua đó, chân dung của các tên độc tài, vơ vét tiền của nhân dân để ăn chơi xa hoa, phung phí. Họ tụ họp nhau lại để vay mượn tiền các nước giàu có, nhưng nhân dân họ đã, đang và sẽ chết đói chính từ những khoản tiền này.

Chân dung Robert Mugabe (Wikipedia):

Trong những năm cầm quyền, ông Robert Mugabe đã thay thế sự thống trị của thiểu số da trắng bằng sự thống trị của thiểu số da đen tập hợp quanh lợi ích cá nhân của chính ông. Ông cũng cho rằng Chúa đã giao quyền lực cho ông ta nên không ai có thể đoạt lại. Các vụ trấn áp do ông chủ mưu trong những năm 1980 làm 20.000 người thiệt mạng. Năm 1998, quân đội của Mugabe trấn áp những cuộc biểu tình của người dân phản đối tình trạng giá nhu yếu phẩm tăng cao. Năm 2005, gần 600.000 người Zimbabwe đã mất nhà cửa bởi các “chiến dịch thanh lọc” thành phố.[10]

Ngày 3 tháng 4 năm 2008, báo chí thế giới được thông báo rằng đảng đối lập chính, Phong trào Thay đổi dân chủ đã tuyên bố kiểm soát được Quốc hội. Tuyên bố này đã được xác nhận khi kết quả bầu cử được công bố nhưng hiện nay đang bị tranh cãi.[11]

Tổng thống Zimbabwe vừa bị tước danh hiệu hiệp sĩ ngày 25-6 năm 2008 bởi Nữ hoàng Anh Elizabeth II vốn phong cho Mugabe từ năm 1994 để phản đối sự vi phạm nhân quyền của ông. Phong trào thay đổi dân chủ của ông Tsvangirai, đối thủ của Mugabe cho biết gần 90 người ủng hộ phong trào này đã bị những người theo phe Mugabe sát hại. Do sử dụng bạo lực để đàn áp phe đối lập mà ông Mugabe đã bị thế giới lên án.[12]

Dưới thời Mugabe, Zimbabwe lạm phát lên tới 11 triệu %, đồng tiền mệnh giá 100 tỉ đôla Zimbabwe (ZD) chỉ đủ mua một ổ bánh mì và tỷ lệ mắc bệnh AIDS vào loại cao nhất châu Phi còn tuổi thọ thì vào hàng thấp nhất thế giới.[13] Tỷ lệ thất nghiệp của Zimbabwe là 70% và ít nhất 80% dân số sống dưới ngưỡng nghèo đói. Mức lạm phát của Zimbabwe tăng hàng năm tới 993,6% và thuộc hàng cao nhất thế giới.[14]

Khi bị tố cáo là hăm dọa bằng bạo lực phe đối lập trong kỳ bầu cử để giữ quyền lực, Mugabe tuyên bố: "Họ có thể hét to bao nhiêu tùy thích, từ Washington hoặc từ London hay từ bất cứ nơi nào khác. Người dân chúng tôi, người dân chúng tôi và chỉ người dân chúng tôi quyết định chứ không phải ai khác".

Thủ tướng Anh, ông Gordon Brown trong bài phát biểu tại Quốc hội Anh đã chỉ trích gay gắt Chính phủ của Robert Mugabe, gọi đó là Chính phủ không được ai thừa nhận còn Ngoại trưởng Mỹ Condoleezza Rice cho rằng chính phủ của ông Robert Mugabe là bất hợp pháp.

Điều đáng nói là những tên độc tài thuộc các nước nghèo châu Phi đang bắt tay với Trung Quốc để bán tài nguyên nước họ, đẩy nhân dân họ vào súng đạn chết chóc và đói nghèo. Theo GS David Shinn thuộc ĐH Geogre Washington thì Trung Quốc đã đổi chiến đấu cơ J-7, phản lực cơ K-8 và radar lấy quyền khai thác khoáng sản và tài nguyên phong phú của Zimbadwe. Suốt thời gian vận động tranh cử của Mugabe, các tàu chở vũ khí của Trung Quốc tấp nập cập cảng Zimbabwe

Hầu như không nước nào trong nhóm 8 quốc gia giàu nhất tham dự Hội nghị đói nghèo do Liên Hợp Quốc tổ chức, trong khi các đại biểu đến từ những nước nghèo nhất tranh thủ đi mua sắm, du hí.

Diễn đàn Lương thực năm nay do Liên Hợp Quốc tổ chức, bắt đầu từ hôm thứ 2 và kéo dài 3 ngày, diễn ra trong bối cảnh dân số đói nghèo thế giới vượt con số 1,02 tỷ, cao nhất kể từ năm 1970. Trên thực tế, xin tài trợ mới là mục đích chính của Hội nghị. 60 nhà lãnh đạo từ các nước nghèo đến với hy vọng thuyết phục nước giàu tăng viện trợ nông nghiệp hàng năm từ 7,9 tỷ USD lên 44 tỷ USD.

Tuy nhiên, đáp lại lời kêu gọi khẩn thiết của Liên Hợp Quốc, nước giàu tỏ ra rất thờ ơ. Không một nhà đại diện nào thuộc nhóm G8 tham dự Hội nghị lần này, ngoại trừ Thủ tướng Italy Silvio Berlusconi không thể vắng mặt với tư cách chủ nhà.

Tổng thống ZImbabwe, Robert Mugabe (đeo kính) trong Hội nghị Lương thực do Liên Hợp Quốc tổ chức diễn ra tại Rome, Italy. Ảnh: Reuters

Theo AP, các nhà quan sát cho rằng sự vắng mặt của các quốc gia thịnh vượng không có nghĩa là họ không hành động. Cuộc gặp gỡ của nhóm G8 vừa diễn ra tại thành phố L'Aquila, Italy đã đề ra nhiều chương trình rõ ràng để chống nạn đói, giúp nông dân tăng năng suất lương thực trên khắp thế giới.

Phần lớn các nước giàu nhận xét Hội nghị lương thực lần này chỉ là sự phí phạm thời gian và tiền bạc, chẳng mang lại lợi ích cụ thể. Thực tế, ngay từ trước khi sự kiện diễn ra, thông tin rò rỉ cho thấy 60 nhà lãnh đạo sẽ chẳng đi đến kết luận nào, ngoài những tuyên bố chung chung, không có thời gian hành động cụ thể.

Phát biểu hôm nay trên tờ Telegraph của Anh, bà Clare Short, phụ trách Chương trình phát triển quốc tế của nước Anh nói: "Tôi không cử ai tham dự hội nghị lần này vì không hy vọng rằng hội nghị sẽ hoạt động hiệu quả".

Trong khi đó, cuộc họp diễn ra tại Rome biến thành kỳ nghỉ cho vài đại biểu. Một trong những nhân vật có ảnh hưởng ở châu Phi là ông Moammar Gadhafi, người đứng đầu nhà nước Lybia, đã tổ chức một buổi dạ hội tại dinh cơ của ông tại thủ đô Italy, với sự tham dự của hàng trăm phụ nữ trẻ.

Các hãng tin Italy cho hay, Tổng thống Zimbabwe, ông Robert Mugabe đến Italy bằng chuyên cơ riêng với một đoàn tùy tùng hơn 60 thành viên. Nhiều người trong số họ tranh thủ thời gian 3 ngày để thăm thú châu Âu.

Còn đệ nhất phu nhân Leila Zine của người đứng đầu nước Tunisia thì thỏa sức mua sắm tại đất nước của thời trang. Hãng tin AP cho biết trong cuộc đổ bộ đến con phố của những thương hiệu nổi tiếng thế giới Via Condotti, đệ nhất phu nhân cùng đoàn tùy tùng đã gây ách tắc cả một đoạn đường.


kẻ giết người đứng đọc diễn văn/ kẻ giết người hô nhân dân muôn năm/ kẻ giết người cười/ kẻ giết người sửa lại cổ áo/ và/ súng máy xả vào đám đông/ nhân dân tôi muôn năm/ lúc đó/ không còn tiếng người la hét nữa/ (thơ trần vàng sao)

Tưởng Năng Tiến

Cò là một loài chim nước có mỏ, cổ và chân cẳng đều dài – sống bằng tép, hến, ốc, cá… – thường quanh quẩn nơi ao hồ hay sông rạch. Cò cũng là tên gọi của một giới người, mới xuất hiện ở Việt Nam, chuyên lo việc môi giới dịch vụ – như cò máu, cò bệnh, cò mả, cò nhà, cò việc…

Trong một xã hội bình thường thì cò nhà chính là những người hành nghề địa ốc, cò việc là những chuyên viên tìm kiếm và giới thiệu việc làm, cò mả là những nhân viên làm việc cho những nghi táng gia (còn gọi nôm na là nhà quàn, chuyên lo việc hỏa táng hay mai táng), và cò bệnh là những cán sự y tế (có nhiệm vụ giới thiệu khách hàng đến những cơ quan chữa trị thích hợp) khi hữu sự. Tất cả những công việc này đều cần thiết, rất hữu ích và đều được khách hàng quí trọng.

Ðiều không may cho giới cò ở Việt Nam là họ sinh sống trong một môi trường xã hội rất không bình thường nên bị gọi là “cò” (một cách khinh miệt) và luôn luôn phải hành sử rất bất thường, cứ y như những kẻ gian manh – lúc nào cũng thậm thụt lấm lét tựa những tên ma cô dắt mối, hay những người buôn bán ma túy – nơi đầu đường xó chợ.

Cò, tất nhiên, không phải là nguyên nhân của những tệ trạng xã hội. Họ cũng là nạn nhân như bao lương dân khác. Túng thì phải tính, thế thôi. Sự bất hạnh của giới người làm cò, nghĩ cho cùng, chỉ là chuyện nhỏ (và chuyện rất thường) ở Việt Nam. Nơi đây, cả một dân tộc đang bị vùi dập và khinh miệt hay chà đạp chứ đâu có riêng chi một giới người nào.

Ðã thế – ở xứ sở của chúng ta – bên cạnh cò thật còn có thêm cò … giả, cò đều và cò mồi. Những con cò chuyên cung cấp những dịch vụ … thừa. Nói cách khác, chúng tạo ra nhu cầu (không có thật) và dùng mánh khóe hay bạo lực bắt mọi người phải sử dụng những dịch vụ (không cần thiết) của mình. Chính loại cò này mới là thủ phạm của tội ác, đáng bị chỉ tên và kết án.

Xin đơn cử một thí dụ:

“Hầu như vùng nông thôn nào cũng có cò heo, nhưng ở phạm vi bài này, chúng tôi chỉ khoanh gọn đội quân cò heo ở huyện Trực Ninh – một huyện phía Nam của tỉnh Nam Ðịnh. Ðội quân này có khoảng 50 người được phân bố rải rác ở tất cả các chợ có heo bán như Cát Thành, Trực Tuấn, Trực Bình, Liêm Hải, Phương Ðịnh… “

“Ðể sống được, ngoài phương thức cổ điển là dựng vai mồi, đưa người mua vào bẫy, đám cò lợn còn tiến hành kinh doanh lợn. Nói như các cụ thì chợ chưa họp kẻ cắp đã đến. Các cò lợn cũng vậy. Mỗi khi đến phiên chợ, họ đến rất sớm để gặp khách nào có ổ lợn mà xem ra lớ ngớ thì cò lợn xúm đến tranh mua. Thường thì họ trả rất rẻ, chê bủng chê beo, nhấc lên bỏ xuống chán chê.”

“Nếu có ai khác cố tình mua và chủ lợn cố tình bán thì các cò lợn sẵn sàng chơi luật rừng ngay, không thì họ cũng giằng co cho đến lúc con lợn gẫy chân. Vì vậy trước sau cò lợn cũng mua được ổ lợn (hay con lợn). Rồi chẳng cần xách đi đâu, họ ngồi luôn xuống tại chỗ để bán lại. Gặp hôm nào lợn ít họ lãi gấp đôi, còn bình thường họ lãi gấp rưỡi, ít khi bị hòa vốn.”

“Nạn cò lợn ở các xã có chợ lợn ở huyện Trực Ninh xuất hiện cách đây 15-16 năm. Càng ngày nó càng phát triển. Nó không những không đem lại lợi ích gì cho bà con nông dân mà còn gây nhiều khốn khó cực lòng. Không ít người đã từng nhăn mặt méo mồm với đám quân cò lợn bất trị chuyên lừa lọc này (”Cò Heo,” Sống Mới, 01 Mar. 2002:27).

Chuyện lừa lọc của lũ cò giả, như cò lợn (thực ra) không có gì mới mẻ, và chỉ là chuyện nhỏ – của đám cò con – tại thôn quê. Ở bình diện quốc gia, nước Việt còn nhiều thứ cò đểu khác “vĩ đại” (và đáng ngại) hơn nhiều.

Cò chiến thuộc loại này.  Sau Thế chiến thứ Hai, khi phong trào giải thực lan rộng trên toàn cầu (và việc trao trả độc lập cho những quốc gia bị trị trở thành một xu hướng không thể đảo ngược ở khắp mọi nơi) thì đám cò chiến ở Việt Nam vẫn cố tạo ra một cuộc chiến “đánh đuổi thực dân để giành độc lập.”

Sau đó, họ tiến hành một cuộc chiến tranh khác bằng cách hô hoán lên là đất nước bị xâm luợc, rồi bắt ép nửa phần dân tộc Việt đi chém giết nửa phần còn lại. Trong cả hai cuộc chiến (rất) “thần thánh” và (hoàn toàn) không cần thiết đó, đám cò đểu đều thắng lợi một cách vẻ vang. Chỉ có nhân dân là (đại) bại – theo như cách nói của thi sĩ Nguyễn Duy.

Dù đã thua te tua, và thua thê thảm liên tiếp qua mấy thế hệ nguời như thế, dân chúng vẫn chưa được để yên. Sau 1975, ở Việt Nam bỗng xuất hiện một loại cò giả khác – gọi là cò người. Ðám cò đểu này tạo ra đủ thứ áp lực khắc nghiệt khiến hàng triệu người Việt phải quyết định bỏ nước ra đi, và chính chúng đứng ra “bán bãi thu vàng” cho những chuyến phiêu lưu nát lòng và hãi hùng này.

Vấn đề trên đã được nhà báo Bùi Tín nhắc lại (trên tạp chí Cánh Én, số Xuân Kỷ Mão, phát hành tại Ðức Quốc, tháng 2 năm 1999) trong bài “Hai câu hỏi cần trả lời rõ ràng khi thế kỷ 20 khép lại.” Một trong hai câu hỏi này, được đặt ra cho ông Phạm Văn Ðồng, nguyên văn như sau: “Xin thủ tướng cho biết ý kiến về sự kiện thuyền nhân hồi 1975, nhất là hồi 1978, 1979Về nguyên nhân và trách nhiệm trong những sự kiện ấy, với những hiện tượng bán bãi thu vàng và khá nhiều tầu, thuyền bị hải tặc bão tố và chìm trong đại dương… Là người đứng đầu chính phủ, một trong những người lãnh đạo cao nhất của đảng cộng sản, thủ tướng nhìn nhận ra sao trách nhiệm của mình trong cuộc di dân rộng lớn và bi thảm ấy?”

Thế kỷ XX đã khép lại, ông Phạm Văn Đồng đã từ trần, chuyện bán bãi thu vàng đã chấm dứt, đám cò người (cũng) đã chuyển vùng – sang một địa bàn hoạt động khác, xuất khẩu lao động – chịu nhận thu nhập ít ỏi hơn. Tuy gọi là “ít” nhưng theo lời tác giả Lê Diễn Đức (trong bài “Sự đểu cáng thời vươn ra biển lớn,” đọc được trên talawas, vào ngày 3 tháng 4 năm 2009) thì ”ở Việt Nam buôn công nhân đi nước ngoài là business hợp pháp ít vốn nhiều lời nhất, hơn cả ma tuý.

Cò người, tuy thế, vẫn chưa bị công luận lên án kịch liệt (chúng tôi sẽ trở lại vấn đề này, chi tiết hơn, vào tuần tới, cũng trên diễn đàn này) vì cạnh chúng có vài loại cò khác – gian ác hơn nhiều và cũng đang gây ra nhiều điều tiếng tệ hại hơn.

Trước hết, hãy nói qua về cò bauxite. Nhân danh chủ trương lớn của một đảng, đám cò này ngang nhiên mang một phần đất nước ra bán xới. Khi bị chất vấn về  hiểm họa của môi sinh (và an ninh quốc phòng) vì đã để cho ngoại nhân khai thác tài nguyên ở một vùng trọng yếu của đất nước, đám cò này liền bù lăn bù loa đe dọa – bằng hình thức “Thông cáo báo chí – rằng: “bản kiến nghị phản đối của các nhà trí thức gửi Lãnh đạo Đảng và Nhà nước là không có cơ sở, không đúng với tình hình thực tế, hoàn toàn mang tính bịa đặt và kích động, và bị các tổ chức phản động lợi dụng.”

Biểu Ngữ Của Những Người Đòi Hỏi Bào Toàn Lãnh Thổ: Nguồn BBC
Biểu ngữ treo trên đường cao tốc: Nguồn BBC

Cò đảo và cò biển còn đáng sợ hơn vì hung hãn và côn đồ hơn thế. Nhiều công dân Việt Nam đang bị giam cầm chỉ vì đã biểu tình, hay treo biểu ngữ, bày tỏ nguyện vọng của họ về việc bảo toàn lãnh thổ, sau khi biết được việc cắt biển và dâng đảo của đám cò này.

Ngày 10 tháng 9 năm 2008, một công dân Việt Nam, ông Nguyễn Văn Hải, bị xử hai năm rưỡi tù giam (với tội danh “trốn thuế”) nguyên do chỉ vì đã  tỏ thái độ phản đối việc rước đuốc  Thếvận hội Bắc Kinh, cũng như lên tiếng về chủ quyền của Việt Nam liên quan đến quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Tương tự, liên tiếp trong bốn ngày (6,7,8 và 9) vào tháng mười năm 2009, đám cò biển và cò đảo đã dựng lên những phiên toà ở Hà Nội và Hải Phòng và tuyên án chín lương dân (*) nhiều năm tù chỉ vì họ đã kêu gọi sự bảo toàn lãnh hải, và tuyên xưng chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam.

Trước đó, vào ngày 18 tháng 9 năm 2008, một công dân Việt Nam khác – cô Phạm Thanh Nghiên – đã bị một số đông công an và nhân viên an ninh (của thành phố Hải Phòng) lôi ra khỏi nhà khi cô đang ngồi toạ kháng, với hai khẩu hiệu: “Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam” và “Phản đối công hàm bán nước của thủ tướng Phạm Văn Đồng.”

Dù hơn một năm đã trôi qua (xem ra) nhà đương cuộc Hà Nội vẫn còn lúng túng, chưa nghĩ ra được tội danh gì thích hợp cho trường hợp Phạm Thanh Nghiên. Do đó, cô vẫn tiếp tục bị biệt giam và không biết đến bao giờ mới được mang ra “xét xử!”

Giữa vòng vây của một đám cò, Phạm Thanh Nghiên – tất nhiên – đang phải đối diện với rất nhiều hung hiểm. Không cần phải là thầy bói, người ta vẫn có thể nói trước được tương lai “lành ít dữ nhiều” của nhân vật này. Số phận của cả dân tộc Việt (e) cũng không khác mấy, nếu cứ tiếp tục cam chịu để bị cai trị và dẫn dắt bởi một bầy cò (cò đểu, cò giả, và  cò mồi) như thế.

Tưởng Năng Tiến

(*)

1. Trần Đức Thạch: 3 năm tù và 3 năm quản chế.

2. Vũ Hùng: 3 năm tù và 3 năm quản chế.

3. Phạm Văn Trội: 4 năm tù và 4 năm quản chế.

4. Nguyễn Xuân Nghĩa: 6 năm tù và 3 năm quản chế.

5. Ngô Quỳnh: 3 năm tù và 3 năm quản chế.

6. Nguyễn Văn Tính: 3 năm 6 tháng tù và 3 năm quản chế.

7. Nguyễn Văn Túc bị kết án 4 năm tù và 3 năm quản chế.

8. Nguyễn Kim Nhàn bị kết án 2 năm tù và 2 năm quản chế.

9. Nguyễn Mạnh Sơn bị kết án 3 năm 6 tháng tù và 3 năm quản chế.

Chủ Nhật, 15 tháng 11, 2009

Tôi yêu đất nước này xót xa... tôi yêu đất nước này cay đắng... tôi yêu đất nước này áo rách... tôi yêu đất nước này rau cháo... tôi yêu đất nước này lầm than... tôi yêu đất nước này chân thật... (thơ Trần Vàng Sao)

Bài thơ của một người yêu nước mình

 

buổi sáng tôi mặc áo đi giầy ra đứng ngoài

   đường  
gió thổi những bông mía trắng bên sông  
mùi toóc khô còn thơm lúa mùa qua  
bầy chim sẻ đậu trước sân nhà  
những đứa trẻ đứng nhìn ngấp nghé  
tôi yêu đất nước này như thế  
mỗi buổi mai  
bầy chim sẻ ngoài sân  
gió mát và trong  
đường đi đầy cỏ may và muộng chuộng  
tôi vẫn sống  
           
vẫn ăn  
                               
vẫn thở  
                                            
như mọi người  
đôi khi chợt nhớ một tiếng cười lạ  
một câu ca dao buồn có hoa bưởi hoa ngâu  
một vết bùn khô trên mặt đá  
không có ai chia tay  
cũng nhớ một tiếng còi tàu
 

mẹ tôi thức khuya dậy sớm  
năm nay ngoài năm mươi tuổi  
chồng chết đã mười mấy năm  
thủa tôi mới đọc được i tờ  
mẹ thương tôi mẹ vẫn tảo tần  
nước sông gạo chợ  
ngày hai buổi nhà không khi nào vắng người đòi

   nợ  
 
 
 
 

sống qua ngày nên phải nghiến răng  
cũng không vui nên mẹ ít khi cười  
những buổi trưa buổi tối  
ngồi một mình hay khóc  
vẫn thở dài mà không nói ra  
thương con không cha  
hẩm hiu côi cút

tôi yêu đất nước này xót xa  
mẹ tôi nuôi tôi mười mấy năm không lấy chồng  
thương tôi nên ở goá nuôi tôi  
những đứa bà con hằng ngày chửi bới  
chúng cho mẹ con tôi áo quần tiền bạc như cho

   một đứa hủi  
ngày kỵ cha họ hàng thân thích không ai tới

thắp ba cây hương  
với mấy cái bông hải đường  
mẹ tôi khóc thút thít  
cầu cha tôi phù hộ tôi nên người  
con nó còn nhỏ dại  
trí chưa khôn chân chưa vững bước đi  
tôi một mình nuôi nó có kể chi mưa nắng

tôi yêu đất nước này cay đắng  
những năm dài thắp đuốc đi đêm  
quen thân rồi không ai còn nhớ tên  
dĩ vãng đè trên lưng thấm nặng  
áo mồ hôi những buổi chợ về  
đời cúi thấp giành từng lon gạo mốc  
từng cọng rau hột muối  
 
 
 
 
 

vui sao khi còn bữa đói bữa no  
mẹ thương con nên cách trở sông đò  
hàng gánh nặng phải qua cầu xuống dốc  
đêm nào mẹ cũng khóc  
đêm nào mẹ cũng khấn thầm  
mong con khôn lớn cất mặt với đời

tôi yêu đất nước này khôn nguôi  
tôi yêu mẹ tôi áo rách  
chẳng khi nào nhớ tuổi mình bao nhiêu
 

tôi bước đi  
mưa mỗi lúc một to  
sao hôm nay lòng thấy chật  
như buổi sáng mùa đông chưa có mặt trời mọc  
con sông dài nằm nhớ những chặng rừng đi qua  
nỗi mệt mỏi rưng rưng từng con nước  
chim đậu trên cành chim không hót  
khoảng vắng mùa thu ngủ trên cỏ may

tôi yêu đất nước này những buổi sớm mai  
không ai cười không tiếng hát trẻ con  
đất đá cỏ cây ơi  
mười ba năm có héo mòn

đất đá cỏ cây ơi

lòng vẫn thương mẹ nhớ cha  
ăn quán nằm cầu  
hai hàng nước mắt chảy ra  
mỗi đêm cầu trời khấn Phật tai qua nạn khỏi  
ngày mai mua may bán đắt
 
 
 
 
 
 

tôi yêu đất nước này áo rách  
căn nhà dột phên không ngăn nổi gió  
vẫn yêu nhau trong từng hơi thở  
lòng vẫn thương cây nhớ cội hoài  
thắp đèn đêm ngồi đợi mặt trời mai

tôi yêu đất nước này như thế  
như yêu cây cỏ trong vườn  
như yêu mẹ tôi chịu khó chịu thương  
nuôi tôi thành người hôm nay  
yêu một giọng hát hay  
có bài mái đẩy thơm hoa dại  
có sáu câu vọng cổ chứa chan  
có ba ông táo thờ trong bếp  
và tuổi thơ buồn như giọt nước trong lá sen

tôi yêu đất nước này và tôi yêu em  
thuở tóc kẹp tuổi ngoan học trò  
áo trắng và chùm hoa phượng đỏ  
trong bước chân chim sẻ  
ngồi học bài và gọi nhỏ tên tôi  
hay nói chuyện huyên thuyên  
chuyện trên trời dưới đất rất lạ  
chuyện bông hoa mọc một mình trên đá  
cứ hay cười mà không biết có người buồn

sáng hôm nay gió lạnh vẫn còn  
khi xa nhà vẫn muốn ngoái lại  
ngó cây cam cây cải  
thương mẹ già như chuối ba hương  
em chưa buồn vì chưa rách áo
 
 
 
 
 
 

tôi yêu đất nước này rau cháo  
bốn ngàn năm cuốc bẫm cày sâu  
áo đứt nút qua cầu gió bay  

tuổi thơ em hãy giữ cho ngoan  

tôi yêu đất nước này lầm than  
mẹ đốt củi trên rừng cha làm cá ngoài biển  
ăn rau rìu rau éo rau trai  
nuôi lớn người từ ngày mở đất  
bốn ngàn năm nằm gai nếm mật  
một tấc lòng cũng trứng Âu Cơ  
một tiếng nói cũng đầy hồn thánh Gióng
 

tôi đi hết một ngày  
gặp toàn người lạ  
chưa ai biết chưa ai quen  
không biết tuổi không biết tên  
cùng sống chung trên đất  
cùng nỗi đau chia cắt bắc nam  
cùng có chung tên gọi Việt Nam  
mang vết thương chảy máu ngoài tim  
cùng nhức nhối với người chết oan ức  
đấm ngực giận hờn tức tối  
cùng anh em cất cao tiếng nói  
bản tuyên ngôn mười bốn triệu người đòi độc lập

   tự do  
bữa ăn nào cũng phải được no  
mùa lạnh phải có áo ấm  
 
 
 
 

được nói cười hát ca yêu đương không ai cấm  
được thờ cúng những người mình tôn kính  
hai mươi năm cuộc đời chưa khi nào định
 

tôi trở về căn nhà nhỏ  
đèn thắp ngọn lù mù  
gió thổi trong lá cây xào xạc  
vườn đêm thơm mát  
bát canh rau dền có ớt chìa vôi  
bên hàng xóm có tiếng trẻ con khóc  
mẹ bồng con lên non ngồi cầu ái tử

đất nước hôm nay đã thấm hồn người  
ve sắp kêu mùa hạ  
nên không còn mấy thu  
đất nước này còn chua xót  
nên trông ngày thống nhất  
cho người bên kia không gọi người bên này là

   người miền nam  
cho người bên này không gọi người bên kia là

   người miền bắc  
lòng vui hôm nay không thấy chật

tôi yêu đất nước này chân thật  
như yêu căn nhà nhỏ có mẹ của tôi  
như yêu em nụ hôn ngọt trên môi  
và yêu tôi đã biết làm người  
cứ trông đất nước mình thống nhất

Thứ Năm, 12 tháng 11, 2009

Đối kháng TQ 'bị bỏ mặc ở sân bay'

 

Feng Zhenghu Một nhà bất đồng chính kiến có tiếng của Trung Quốc nói ông ở trong tình trạng bị bỏ mặc tại sân bay Tokyo trong chín ngày nay do TQ từ chối cho ông quay trở về nhà.

Ông Feng Zhenghu vẫn đang phải vạ vật trên một chiếc ghế bành gần điểm kiểm soát di trú tại sân bay quốc tế Narita.

Ông nói với hãng AFP rằng giới chức TQ vi phạm quy định của Liên Hiệp Quốc và luật pháp của chính họ.

Các nhà hoạt động về nhân quyền nói tình trạng căng thẳng này giống như chuyện một người vô chính phủ trong phim ‘The Terminal’ của Stephen Spielberg.

Tổ chức Ân xá Quốc tế liệt kê ông Feng là một nhà bất đồng chính kiến có tiếng.

Ông Feng nói ông đã tám lần tìm cách về lại Trung Quốc sau vài tháng ở Nhật, nhưng bốn lần bị trả lại tại sân bay Pudong ở Thượng Hải, và bốn lần khác bị nhân viên hàng không Nhật từ chối cho bay.

Ông Feng di cư tới Nhật nhiều năm trước sau khi được biết đã bị truy tố vì tham gia vào một phong trào sinh viên, nhưng ông đã quay lại TQ vào năm 1999 để thành lập một công ty tư vấn.

Tuy nhiên, ông bị giới chức TQ buộc tội đã điều hành một doanh nghiệp bất hợp pháp vào năm 2001, và phải chịu án tù 3 năm.

Một người phát ngôn cho dịch vụ di trú Nhật tại sân bay Narita nói họ chưa bao giờ gặp trường hợp tương tự.

Người phát ngôn này nói với AFP: “Chúng tôi đã tìm cách thuyết phục ông ta vào lại Nhật Bản, nhưng ông ta chọn ở lại chỗ đó”.

Ông Feng nói ông chưa được thanh toán chi phí cho tám lần tìm cách quay lại TQ, và nói điều đó khiến ông không còn tiền để mua đồ ăn nữa.

TQ có nhiều 'nhà tù bất hợp pháp'

Tổ chức Theo dõi Nhân quyền, Human Rights Watch, nói Trung Quốc đang có nhiều trung tâm giam giữ bất hợp pháp, giam các công dân của họ trong nhiều tháng.

Tổ chức này nói các trung tâm giam giữ - được biết đến với cái tên “ngục đen” - thường là các khách sạn quốc doanh, các bệnh xá hay bệnh viện tâm thần.

Trong số những người bị giam giữ có nhiều người chỉ là dân thường tới Bắc Kinh để tố cáo về những bất công tại địa phương.

Chính phủ TQ bác bỏ chuyện họ sử dụng “ngục đen”, cho dù trước đây đã có các tường thuật trên báo chí của nhà nước về các trung tâm giam giữ này.

‘Bị đấm đá’

Báo cáo của tổ chức nhân quyền, có tên ‘Hẻm Địa ngục’, nói các thường dân thường bị bắt cóc trên đường phố và đưa vào các trung tâm giam giữ bất hợp pháp.

Đôi khi họ bị tước đoạt tài sản, bị đánh đập và không được cho biết tại sao họ bị giam giữ.

Human Rights Watch nói họ thu thập thông tin cho báo cáo này bằng cách phỏng vấn 38 người đã bi giam giữ vào đầu năm nay.

Một người bị giam nói: “Tôi hỏi tại sao họ lại giam tôi, thì một nhóm canh gác đi vào đấm, đá tôi và nói họ muốn giết tôi.”

Sự tồn tại của các ngục đen tại trung tâm Bắc Kinh là một sự chế diễu đối với lời lẽ của chính phủ TQ rằng họ cải thiện nhân quyền và tôn trọng sự cai trị của luật pháp

Sophie Richardson

“Tôi gào lên kêu cứu thì họ mới ngừng lại, nhưng từ đó, tôi không dám hỏi, sợ lại bị đánh.”

Rất nhiều trong số những người bị giam giữ là những người khiếu kiện, tới Bắc Kinh để nộp đơn kiện lên Cục nhận đơn thư khiếu nại nhà nước.

Bộ phận này của chính phủ có nhiệm vụ giúp người dân trong cả nước giải quyết những khiếu nại của họ.

Tuy nhiên, một số người khiếu kiện lại bị nhân viên an ninh mặc thường phục bắt giữ khi tới Bắc Kinh.

Báo cáo của Human Rights Watch trích dẫn các tài liệu chưa được ấn hành của chính quyền địa phương cung cấp chi tiết về cơ cấu kinh tế đằng sau những nhà ‘ngục đen’ này.

Báo cáo nói các quan chức địa phương bị phạt vì “không có các hành động mang tính quyết định khi người khiếu kiện từ các địa phương cần phải giải quyết pháp luật tại thủ phủ của tỉnh hay Bắc Kinh”.

Những người điều hành các ngục đen này được thanh toán khoảng 150 đến 200 nhân dân tệ đối với mỗi người bị giam giữ, mà theo bản báo cáo là ‘tạo động lực để thực hiện hình thức bắt giữ bất hợp pháp”.

Giám đốc phụ trách về châu Á của Human Rights Watch, Sophie Richardson, nói: “Sự tồn tại của các ngục đen tại trung tâm Bắc Kinh là một sự chế diễu đối với lời lẽ của chính phủ TQ rằng họ cải thiện nhân quyền và tôn trọng sự cai trị của luật pháp”.

Phẫn nộ

Tù nhân

Các nhà tù bình thường cũng bị chỉ trích vì để xảy ra các vụ thiệt mạng

Truyền thông nhà nước TQ cũng đã nói về sự tồn tại của các nhà tù đen này.

Tờ China Daily tuần trước có một tường thuật về vụ xét xử một nhân viên bảo vệ ngục đen bị buộc tội hãm hiếp một phụ nữ 20 tuổi bị giam giữ.

Tuy nhiên, người phát ngôn bộ Ngoại giao Trung Quốc Tần Cương hôm thứ Năm đã bác bỏ chuyện nước này có các trung tâm giam giữ bất hợp pháp.

Nói tại buổi họp báo thường kỳ, ông Tần Cương tuyên bố: “Tôi có thể đảm bảo với quí vị rằng không có cái gọi là ngục đen tại Trung Quốc”.

Tuy nhiên, khi tiếp tục bị chất vấn về chuyện này, ông nói thêm rằng có “những vấn đề tồn tại” cần phải được xử lý.

Ngục đen cũng chỉ là một khía cạnh của hệ thống giam giữ tại TQ bị chỉ trích trong những tháng gần đây.

Công chúng gần đây đã tỏ ý phẫn nộ trước việc có nhiều cái chết trong các nhà tù và trung tâm giam giữ, là điều mà chính phủ đã hứa là sẽ dẹp bỏ.

Thứ Tư, 11 tháng 11, 2009

Quyền lực và tri thức

Được biết Hội nghị người Việt Nam ở nước ngoài lần thứ nhất sắp diễn ra từ ngày 21-23/11.

Việt Nam kêu gọi người Việt ở nước ngoài về giúp xây dựng đất nước

Chủ đề cuộc gặp, theo ban tổ chức, là “Vì một cộng đồng đoàn kết vững mạnh, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng đất nước”.

Tiêu chí thì hay, nhưng không hề mới đã làm nảy sinh câu hỏi là sao vấn đề hay như vậy mà qua hằng chục năm vẫn không tiến bộ khả quan? Thiết nghĩ trong một cái nhìn dài hơi, thì sự đóng góp của kiều bào quan trọng nhất là chuyển tải thông tin và tri thức tiên tiến về nước, đặc biệt khi kiều hối cùng những quan hệ trực hệ theo thời gian mà ít dần đi.

Suy tính về phương pháp và hiệu quả chuyển giao tri thức, chắc chắn không thể bỏ qua thực tế sử dụng trí thức trong nước. Người viết muốn hình dung những rào cản với trí thức Việt kiều, thông qua việc khảo sát giới trí thức Việt Nam.

Trí thức Việt Nam - cắt một lát!

Thôi thì ta tạm gọi những người được đào tạo có trình độ đại học trở lên ở Việt Nam là trí thức, mặc dù GS Phan Đình Diệu đã từng cho rằng Việt Nam chưa có đội ngũ trí thức theo đúng nghĩa.

Tìm đọc lại lớp trí thức Tây học tiêu biểu như Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo, Nguỵ Như Công Tum…có vẻ các cụ chỉ được chính quyền sử dụng như những “lá bài” chính trị hơn là tạo điều kiện để tri thức của các cụ tỏa sáng, truyền bá tới các tầng lớp nhân dân và hậu thế.

Nhắc lại như vậy để thấy, loại trí thức cây Đa, cây Gạo ở Việt Nam hầu hết là bắt nguồn đào tạo từ “lò” Liên Xô, Đông Đức, Trung Quốc và các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa (XHCN) cũ. Riêng Liên Xô (cũ) cho tới lúc rã đám (1990) đã đào tạo cho Việt nam 52.000 đại học, sau đại học và khoảng 100.000 công nhân kỹ thuật. Trong suốt chiều lịch sử của chiến tranh lạnh, do lằn phân chia ý thức hệ, “kênh” thông thương của trí thức Việt nam với thế giới cơ bản là các nước XHCN.

Khối XHCN Đông Âu sập đổ, giới trí thức Việt Nam mất đi chỗ dựa tinh thần và hệ thống chính trị thì mất điểm tựa về ý thức hệ. Trí thức Việt Nam đồng thời mất cơ hội đào tạo cơ bản và nâng cao trình độ, nhưng nghiêm trọng nhất là mất đi “chiếc cầu trung gian” để giúp họ mường tượng ra thế giới bên ngoài đã biến đổi sang nền kinh tế tri thức như thế nào, dù rằng trình độ của các nước Đông Âu lúc ấy còn đi sau các nước Tây Âu hàng chục năm.

Mô hình công nghiệp ở những năm cuối thập kỷ 80 tại Liên xô và Đông Âu là những công xưởng “đại tướng” nhưng lãng phí tài nguyên, năng lượng và ô nhiễm. Nền công nghiệp hóa được vẽ ra bởi đội ngũ trí thức lãnh đạo Việt nam cho tương lai 2020, có dáng dấp của “thời đại công nghiệp” này vay mượn cách tổ chức của các tập đoàn công nghiệp Hàn Quốc.

Trong các quốc gia phát triển, giới trí thức thường đi đầu trong các trào lưu tư tưởng và sáng tạo, làm lực lượng tiên phong đưa cả xã hội đi lên. Có thể gọi đó là tính tiên phong và “lãng mạn” mà xã hội đòi hỏi ở đội ngũ này.

Thiếu niềm tin vào năng lực tri thức cùng thứ văn hóa Khổng nho, gia trưởng được xây trên nền tảng nhất nguyên ý thức hệ, đã đẩy lớp người đang nắm quyền lực tới trạng thái tâm lí duy lợi.

Hoàng Kim Phúc

Sức mạnh của trí thức phụ thuộc vào chất lượng đào tạo, trình độ cập nhật thông tin và điều kiện tự do tư tưởng. Thiếu một trong ba yếu tố trên, giới trí thức không thể phát triển được. Cả ba điều trên đều là những thứ còn thiếu vắng trong xã hội Việt nam hiện nay.

Trong cả một thập kỷ 90 biến động và “cô lập”, giới khoa bảng Việt Nam xào xáo lại những kiến thức cũ, quay lại đào tạo lẫn nhau theo những quy chuẩn tự họ đặt ra. Đa phần những “tri thức” này giúp họ hợp thức hoá bằng cấp để giành chỗ trong hệ thống chính trị nhưng nó còn ít giá trị phục vụ xã hội vì đã lỗi thời. Lớp cán bộ này hiện nay đang nắm hầu hết các vị trí quan yếu của đất nước.

Nền tảng tri thức như vậy dĩ nhiên dẫn tới sự mất niềm tin vào khả năng tự tác nghiệp khi cọ sát với sự phát triển khoa học, công nghệ chóng mặt ở thế giới.

Thiếu niềm tin vào năng lực tri thức cùng thứ văn hóa Khổng nho, gia trưởng được xây trên nền tảng nhất nguyên ý thức hệ được tuyên huấn ngay từ thơ ấu đã đẩy lớp người đang nắm quyền lực trong các sở, vụ, viện, bộ, trung ương … tới một trạng thái tâm lí duy lợi, và giữ quyền lực bằng mọi giá. Tâm tư phổ biến của lớp cán bộ này là nhìn sự nhũng lạm quyền lực với con mắt vừa căm ghét, vừa thèm khát nhưng cũng đầy sợ sệt. Thực trạng mua quan bán tước rộng khắp từ thấp tới cao là một hệ quả nhỡn tiền.

Mọi thứ lý tưởng hoa mỹ sau “sụp đổ Đông âu” chỉ còn là màn trình diễn nhằm biện bạch cho tính chính thống hay tính tiên phong mà thực ra họ đã không còn thủ đắc nữa.

Phía bên kia

Trong những năm tháng đó, ở phía bên kia của lát cắt có một thành phần mới khác đang lớn lên. Dẫn đầu họ là những trí thức xuất sắc do may mắn nào đó “sống sót” sau những cơn “lũ quét” hồng hơn chuyên như Hoàng Tụy, Lê Đăng Doanh, Nguyễn Quang A…

Lớp trẻ hơn nằm trong nhóm người may mắn tìm được cơ hội đào tạo từ ở những nước dân chủ phát triển, bao gồm một số “con ông cháu cha”, hay những du học sinh cuối cùng ở Đông Âu XHCN tìm được cơ hội học tập và làm việc ở nước thứ ba. Số khác được đào tạo tại Việt Nam nhưng sau đó có cơ hội làm việc và trưởng thành trong các công ty, tổ chức nước ngoài, thậm chí đang làm việc trong thể chế nhưng bắt buộc phải cọ sát có hệ thống với bên ngoài do công việc đòi hỏi. Nhiều người là du học tự túc.

Sự khác biệt cơ bản của tập hợp này với những người ở phía bên kia lát cắt không hẳn là nền tảng tri thức nghề nghiệp cập nhật, tiếng Anh hoặc phương pháp tổ chức làm việc hiệu quả, vì đó chỉ là những kĩ năng nếu có đầu tư và phương cách đúng là có thể đào tạo được ở Việt Nam.

Nhiều người Việt đang được các trường lớn ở phương Tây đào tạo

Khác biệt chính là ý thức của họ về một xã hội dân chủ.

Hoàn cảnh cọ sát học tập và làm việc đã chỉ cho họ một điều rõ ràng rằng “hoàn toàn có thể xây dựng một xã hội ít tham nhũng hơn, con người có cơ hội được đào tạo và chăm sóc sức khỏe tốt hơn nếu vận hành xã hội theo những nguyên tắc kỹ trị trên nền tảng của dân chủ và thượng tôn tam quyền phân lập.

Mặc dù về số lượng họ còn rất nhỏ so với cả một bộ máy cầm quyền, chưa kể bộ máy này còn luôn được bổ sung những “kế cận” là sản phẩm của nền giáo dục lạc hậu đang tạo ra, nhưng nhóm “thiểu số” này có những điểm mạnh tuyệt đối, đó là nó phát triển đúng với xu thế của nhân loại nên được bổ sung liên tục bởi nhiều phần tử trẻ từ lát cắt bên kia, mỗi khi họ có cơ hội đào tạo ở thế giới văn minh và nhận thức lại. Hơn nữa, khát vọng của “tập hợp” này hướng tới chính là ước vọng của cả dân tộc. Khát vọng mà trào lưu cộng sản đã hứa mang đến nhưng thất bại vì chính những phi lí từ nguyên lí của nó.

Thực tế và viễn cảnh

Người Việt chưa có văn hóa phản đối tập thể nhưng việc hàng ngàn cán bộ có năng lực, sau khi được đào tạo, bỏ “khu nhà nước” để ra tư nhân thực chất là họ đã “tỏ thái độ bằng chân” thể hiện sự xung đột mạnh mẽ giữa hai lát cắt này.

Viện IDS của nhiều trí thức tự giải thể để phản đối một quyết định của chính phủ

Mâu thuẫn kể trên sẽ bị trầm trọng hóa và biến thành đối kháng khi những vấn đề liên quan tới ngoại xâm và an ninh quốc gia nổi lên, vì lúc đó sự cố kết để giữ quyền lợi của các nhóm quyền lực và lợi ích trở thành vật cản để đất nước cải biến và tìm lối thoát hiểm cho cả dân tộc.

Từ thực tế trên cho thấy, ngay cả những tinh hoa trí thức hiện tại đang sống trong nước cũng không được phát huy hay sử dụng hiệu quả, thì việc kêu gọi góp sức chấn hưng đất nước từ trí thức Việt kiều, những người đang sống và làm việc trong môi trường tự do, với nhân sinh quan và thế giới quan khác biệt với không gian chính trị trong nước sẽ khó mà đồng điệu và khả thi.

Để một đất nước phát triển bền vững, giới cầm quyền cần nhận thức những quy luật có tính tất yếu để tìm kiếm những chính sách phù hợp, giải phóng năng lực sáng tạo và tránh tổn thất. Điều đó sẽ khôn ngoan hơn là làm chậm sự phát triển quy luật bằng mọi giá. Hơn nữa, chỉ khi nào những mâu thuẫn nội tại giữa quyền lực và tri thức bên trong giới trí thức tại Việt Nam được giải quyết thì khi đó mới hy vọng động viên hiệu quả trí tuệ của trí thức Việt kiều.

'Không xem được lễ 09/11'

Buổi lễ đánh dấu 20 năm ngày Tường Berlin sụp đổ được truyền đi toàn thế giới

Nhiều người nước ngoài làm việc tại Hà Nội cho BBC biết họ không xem được chương trình của các hãng truyền thông nước ngoài truyền hình trực tiếp kỷ niệm 20 năm ngày Bức Tường Berlin sụp đổ.

Người ta tin rằng đây là sự kiểm duyệt một sự kiện mà Việt Nam không muốn nhắc đến, mặc dù không rõ đây là chủ trương từ chính phủ hay chỉ của một vài công ty truyền hình.

Thứ Hai đầu tuần này, nhiều nguyên thủ quốc gia đã có mặt ở Đức cho buổi lễ kỷ niệm 20 năm ngày sụp đổ Bức tường Berlin, đưa tới thống nhất nước Đức và kết thúc Chiến tranh Lạnh.

Thủ tướng Đức Angela Merkel, cùng cựu lãnh đạo Liên Xô Mikhail Gorbachev và lãnh đạo dân chủ Ba Lan Lech Walesa, đã bước qua điểm mở biên giới lần đầu năm 1989 giữa Đông và Tây Berlin.

Trong khi truyền thông và báo chí Việt Nam im lặng cả trước và trong ngày 09/11, nhiều người hy vọng có thể được thông tin từ các kênh nước ngoài trong hệ thống truyền hình cáp.

Lý do kỹ thuật?

Nhưng tại Hà Nội, BBC được cho biết nhiều người đã không xem được buổi lễ vì lý do "kỹ thuật".

Mặc dù đăng ký hệ thống truyền hình cáp, nhưng trên màn ảnh của nhiều khách hàng tại Hà Nội chỉ hiện ra thông báo thử nghiệm kỹ thuật trong ít nhất một giờ đồng hồ trước khi trở lại bình thường.

Dường như một sự kiểm duyệt nếu có đã không xảy ra ở quy mô toàn quốc, vì ít nhất một khách hàng tại TP. HCM cho biết ông vẫn xem được buổi lễ hôm 09/11 qua truyền hình số vệ tinh DTH.

Một nhà hoạt động từ thiện người Anh ở Hà Nội cho BBC Tiếng Việt hay ông không xem được phần về lễ ở Berlin trên BBC World qua truyền hình cáp do một công ty Việt Nam cung cấp nhưng không biết rõ mạng đó là gì.

Giới báo chí nước ngoài thì bàn tán tin chưa được kiểm chứng rằng có thể cả chuyên mục Berlin của CNN hôm đó cũng bị ngăn.

Các kênh này đều phát trực tiếp bằng tiếng Anh nên sự việc đầu tiên được giới người nước ngoài ở Việt Nam chú ý, sau mới lan ra các mạng tiếng Việt.

Trong những ngày trước và sau buổi lễ, truyền thông Việt Nam hầu như giữ im lặng trước sự kiện được xem là mở đường cho sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản ở Đông Âu năm 1989.

Trang mạng báo Sài Gòn Giải Phóng thuộc số hiếm hoi đưa một bản tin ngắn về việc nước Đức "kỷ niệm 20 năm ngày Bức tường Berlin sụp đổ".

Bản tin này viết bức tường "trở thành một biểu tượng của Chiến tranh Lạnh" và rằng "ngày 9-11-1989, bức tường bị phá hủy".

Truyền thông quốc tế vẫn nhắc lại chuyện một biên tập viên nổi tiếng tại Tp HCM "bị mất việc" vì viết bài đ́ến thăm Bảo tàng Bức tường Berlin ở Đức.

Tuy thế, một nhà báo kỳ cựu ở Hà Nội nói rằng ông không tin việc kênh truyền hình cáp như VTC hay mạng nào khác ngăn chuyên mục về Berlin là có nguyên nhân chính trị từ trên xuống vì theo ông, chính giới Việt Nam đã coi các sự kiện ở Đông Âu trước đây là 'thực tế lịch sử'.

Ông cũng cho hay đã có không ít trường hợp công ty truyền hình cáp tự ý đưa quảng cáo vào các đoạn phim đáng ra khách hàng phải được xem toàn bộ.

Được biết lâu nay, kênh BBC World trong hệ thống VCTV ở Việt Nam luôn phát chậm lại 30 phút.

Vì sao Bức tường Berlin sụp đổ


Từ Truman cho tới Reagan, những lợi ích của sự rành rẽ về đạo lý

Trong cuộc tranh luận quanh vấn đề xem ai xứng đáng được ghi danh trong việc đã gây nên sự sụp đổ của Bức tường Berlin vào đêm mùng 9 tháng Mười một năm 1989, nhiều cái tên đã hiện diện trong tâm trí mọi người, cả ở cấp cao lẫn cấp thấp.


Có Günter Schabowski, phát ngôn viên của bộ chính trị Đông Đức khi tình tình trở nên hỗn loạn, người tham gia vào một cuộc họp báo được truyền hình trực tiếp vào buổi tối hôm đó với việc loan báo bất ngờ rằng những hạn chế đi du lịch của nước này đã được dỡ bỏ “ngay tức khắc”. Có Mikhail Gorbachev, người đã tuyên bố rõ rằng Liên Xô sẽ không đàn áp khốc liệt sức mạnh của nhân dân tại các nước chư hầu như nó đã từng làm trong những thập kỷ trước tại Czechoslovakia và Hungrari. Có những người anh hùng trong phong trào công đoàn Đoàn Kết Ba Lan, ít nhất là có Giáo hoàng John Paul II, người đã làm được nhiều điều để phơi bày sự phá sản hoàn toàn về đạo đức của chủ nghĩa cộng sản.


Và có Ronald Reagan, người đã tin rằng công việc của nghệ thuật quản lý nhà nước phương Tây là tập trung tài lực tinh thần, chính trị, kinh tế và quân sự để không chỉ đơn giản là ngăn chặn khối Số Viết, mà còn phải chôn vùi nó. “Những gì tôi đang mô tả lúc này là một kế hoạch và một niềm hy vọng cho dự tính lâu dài – cuộc tuần hành vì tự do và dân chủ sẽ ném chủ nghĩa Marx-Lenin vào đống tro tàn lịch sử,” ông đã tuyên bố như vậy năm 1982, trước sự ngạc nhiên và chế nhạo của những người chỉ trích mình. Giờ đây, có một niềm hy vọng táo bạo.


Tất cả các nhân vật này đã đóng vai trò riêng của mình, khi họ là thế hệ những nhà lãnh đạo đi trước từng khẳng định rằng phương Tây có một bổn phận đạo lý để bảo vệ cho vùng đất tự do nhỏ nhoi lọt thỏm giữa Berlin.


Việc làm trọn bổn phận đó đã phải trả một cái giá – 71 quân nhân Anh và Mỹ đã hy sinh cuộc đời mình trong thời gian thực hiện cuộc Không vận khẩn cấp vào Berlin * – mà những nhà chính trị “thực dụng” hơn có lẽ đã từ bỏ một cách vui vẻ trước lời hứa có những mối quan hệ tốt đẹp hơn với những người Sô Viết. Không phải chỉ có một ít các tướng lĩnh trong Khối NATO đã nghĩ rằng việc bảo vệ Berlin đã làm lộ ra một cách không cần thiết các lực lượng quân sự của họ tại một vị trí không thể chống giữ được về quân sự, khi đem tới cho người Nga một cơ hội tống tiền phương Tây như họ đã từng chủ động thực hiện tại địa điểm có ý nghĩa sống còn hơn về chiến lược, đặc biệt là Cuba.


Tuy nhiên, nếu như lập trường của phương Tây ở Berlin giải thích mọi điều, thì có nghĩa là lời cam kết đạo lý có một cách gặt hái những cổ tức chiến lược vượt thời gian. Bằng cách ra lệnh tổ chức cuộc không vận khẩn cấp vào năm 1948, Harry Truman đã cứu được một thành phố đang chết đói và bất chấp hành động bắt nạt của Liên Xô. Để có ý nghĩa quan trọng, ông đã cho thấy rằng Hoa Kỳ sẽ không bỏ rơi Âu châu lại cho những kẻ chuyên trả thù, như nó đã từng có sau cuộc Đệ nhất Thế chiến, vì vậy mà Hoa Kỳ đã giúp mở đường cho việc thành lập khối quân sự NATO vào tháng Tư năm 1949.


Với việc giữ vững trong 40 năm qua, Truman và những người kế vị ông đã biến đổi những gì được cho là điểm yếu nhất của khối liên minh Đại Tây Dương thành thứ vững mạnh nhất của nó. Để biết về những gì mà phương Tây đã phải chịu đựng trong hầu hết quãng thời gian của những năm đó, người ta đã phải tới Berlin, nhìn thấy Bức tường, xém xét mục đích của nó, và quan sát những sự tương phản giữa khung cảnh phồn vinh đầy sức sống ở bên này thành phố với trạng thái đơn điệu buồn tẻ trong cảnh bị áp bức ở phía bên kia.


Những tương phản đó thậm chí còn rõ ràng hơn đối với những người Đức mắc kẹt lại bị giam hãm bên kia Bức tường. Dây thép gai, những khu quân sự khép kín và cỗ máy tuyên truyền cộng sản có thể giữ cho khung cảnh thịnh vượng của phía Tây không lọt vào tầm nhìn của hầu hết người dân sống bên phía đông của Bức Màn Sắt. Song điều đó không đúng đối với người dân Đông Berlin, nhiều người trong số họ chỉ nhìn ra ngoài cửa sổ nhà mình là hiểu được mức độ vô nghĩa và vô đạo lý ra sao trong những lời hứa hẹn về chủ nghĩa xã hội so với thực tế của hệ thống thị trường tự do.


Tuy nhiên điều này lại nảy sinh sự khơi gợi rằng thậm chí những thực tế chính trị hiển nhiên đó lại lờ mờ khó hiểu đối với nhiều người dân từng sống trong xã hội tự do và họ cần phải được biết rõ hơn nữa. “Bất chấp những gì mà nhiều người Mỹ suy nghĩ, hầu hết người Liên Xô không thấy khát khao chủ nghĩa tư bản hay nền dân chủ theo hình mẫu phương Tây,” đó là nhận xét của Dan Rather của đài CBS chỉ hai năm trước khi Bức tường sụp đổ. Và khi Reagan đọc bài phát biểu lịch sử của ông kêu gọi ông Gorbachev hãy “kéo đổ bức tường này,” ông đã làm như vậy sau khi được các cố vấn cao cấp của mình cảnh báo rằng cách diễn đạt đó “không phải là với cương vị tổng thống,” và sau khi hàng ngàn người biểu tình đã tuần hành trên khắp phía Tây Berlin với thái độ đối lập.


Nó là một thứ tặng vật cho phẩm hạnh và quyết tâm chiến lược của Reagan, như với bất cứ ai khác từng tham dự phần mình vào việc hạ bệ Bức tường, rằng họ có thể hiểu thấu những lời lẽ ngụy biện của các tuyên truyền viên Sô Viết, những gã du khách phương Tây của họ, và những bè lũ ăn nói đạo lý lập lờ và những kẻ xã giao xảo trá và đơn giản là hãy mở to mắt mà nhìn vào Bức tường.
“Để nhìn vào những gì ngay trước mũi của mình thì cần có một nỗ lực không ngừng,” George Orwell đã từng nói. Đó là những gì mà những người anh hùng của năm 1989 đã làm một cách bình thản với lòng trung thực và can đảm trong nhiều năm liên tục cho đến, ít nhất, là khi Bức tường đổ nhào.


Bản tiếng Việt © Ba Sàm 2009 


* The Berlin Airlift – còn được gọi là The Berlin Blockade (24 June 1948 – 12 May 1949): là chiến dịch bao vây phong tỏa Tây Berlin của Liên Xô, dẫn tới cuộc không vận khẩn cấp của Hoa Kỳ, một trong những cuộc khủng hoảng quốc tế lớn đầu tiên của Chiến tranh Lạnh (wikipedia).

http://anhbasam.com/2009/11/10/356-vi-sao-b%e1%bb%a9c-t%c6%b0%e1%bb%9dng-berlin-s%e1%bb%a5p-d%e1%bb%95/ 
Why the Berlin Wall Fell  Đăng bởi anhbasam on 10/11/2009

Thứ Hai, 9 tháng 11, 2009

"Chúng ta phải tiếp tục đối thoại, để người dân có thể nói, trước khi tất cả họ biến mất. Tôi cảm thấy tội lỗi là đã không cất tiếng nói sớm hơn." (Jens Reich) ... Bây giờ mỗi quốc gia phải đối phó với cuộc chiến riêng của mình. http://www.bbc.co.uk/vietnamese/world/2009/11/091104_euro20years.shtml

Hình ảnh Berlin kỷ niệm 20 năm ngày đổ tường

Lễ hội của Tự do (Fest der Freiheit), đỉnh cao của những hoạt động kỷ niệm 20 năm Bức tường Berlin sụp đổ, diễn ra ngày 09/11/2009 tại Cổng Brandenburger Tor.

19 giờ: Mở đầu bằng chương trình biểu diễn ngoài trời của dàn nhạc Staatskapelle Berlin và nhạc trưởng Daniel Barenboim với các trích đoạn từ Lohengrin của Richard Wagner, A Survivor from Warsaw của Arnold Schönberg, Giao hưởng số 7 của Beethoven và Es ist, als habe einer die Fenster aufgestoßen của Friedrich Goldmann.

19 giờ 25: Phát biểu của các nhà lãnh đạo CHLB Đức, thành phố Berlin và khách quốc tế.

20 giờ: Lech Walesa và Miklos Nemeth xô đổ tảng domino đầu tiên xuất phát từ Nhà Quốc hội. Bon Jovi hát bài “We Weren’t Born To Follow”.

20 giờ 25: Jerzy Buzek và José Manuel Barroso cùng học sinh các trường Châu Âu xô đổ dãy domino xuất phát từ Quảng trường Potsdamer Platz. Phát biểu của Muhammad Yunus và nghệ sĩ Hàn quốc Ahn Kyu-Chul. Trình diễn bài “We Are One” của Paul van Dyk

20 giờ 40: Khi tảng domino cuối cùng đổ xuống, kết thúc bằng pháo hoa.

Lễ kỷ niệm 20 năm ngày Bức tường Berlin sụp đổ (Fest der Freiheit) tại Cổng Brandenburger Tor 09/11/2009

Lễ kỷ niệm 20 năm ngày Bức tường Berlin sụp đổ (Fest der Freiheit) tại Cổng Brandenburger Tor 09/11/2009

Ngày này, nơi này, 20 năm trước

Ngày này, nơi này, 20 năm trước

Thủ tướng Merkel đọc diễn văn tại cầu Bornholmer Straße, cửa khẩu Đông Berlin đầu tiên được mở đêm 09/11/1989

Thủ tướng Merkel đọc diễn văn tại cầu Bornholmer Straße, cửa khẩu Đông Berlin đầu tiên được mở đêm 09/11/1989

Ngày này, nơi này, 20 năm trước

Ngày này, nơi này, 20 năm trước

M. Gorbachev, kiến trúc sư của những cải cách chuẩn bị cho sự sụp đổ của bức tường Berlin trước bức tượng đồng chân dung ông của nghệ sĩ Serge Mangin

M. Gorbachev, kiến trúc sư của những cải cách chuẩn bị cho sự sụp đổ của bức tường Berlin trước bức tượng đồng chân dung ông của nghệ sĩ Serge Mangin

East Side Gallery: 1316 m còn sót lại của Bức tường Berlin được dùng làm nơi thể hiện ý tưởng nghệ thuật của 102 nghệ sĩ từ khắp nơi trên thế giới

East Side Gallery: 1316 m còn sót lại của Bức tường Berlin được dùng làm nơi thể hiện ý tưởng nghệ thuật của 102 nghệ sĩ từ khắp nơi trên thế giới

Bức tranh nổi tiếng của East Side Gallery: Cái hôn chết người của tình cộng sản anh em giữa Brezhnev và Erich Honecker

Bức tranh nổi tiếng của East Side Gallery: Cái hôn chết người của tình cộng sản anh em giữa Brezhnev và Erich Honecker

100 nghệ sĩ ghi-ta cùng ban nhạc Noir (Hà Lan) lập biểu tượng Bức tường Âm thanh trong Công viên Bức tường

100 nghệ sĩ ghi-ta cùng ban nhạc Noir (Hà Lan) lập biểu tượng Bức tường Âm thanh trong Công viên Bức tường

Thủ tướng Đức Merkel cùng Thủ tướng Ý Silvio Berlusconi (Ý), Thủ tướng Tây Ban Nha José Luis Rodríguez Zapatero, Thủ tướng Anh Gordon Brown, Tổng thống Pháp Nicolas Sarkozy, Tổng thống Nga Dmitry  Medvedev,  Tổng thống Đức Horst Köhler, Thị trưởng Berlin Klaus Wowereit và Ngọai trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton

Thủ tướng Đức Merkel cùng Thủ tướng Ý Silvio Berlusconi (Ý), Thủ tướng Tây Ban Nha José Luis Rodríguez Zapatero, Thủ tướng Anh Gordon Brown, Tổng thống Pháp Nicolas Sarkozy, Tổng thống Nga Dmitry Medvedev, Tổng thống Đức Horst Köhler, Thị trưởng Berlin Klaus Wowereit và Ngọai trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton

Hoa hồng của ký ức trên một phần còn sót lại của bức tường

Hoa hồng của ký ức trên một phần còn sót lại của bức tường

1000 tảng domino là bằng bọt xốp, cao 2,50m, rộng 1 mét, dày 40 cm, nặng 20 kg, do học sinh Berlin và các nghệ sĩ quốc tế trình bày thành các tác phẩm nghệ thuật được dựng theo đường bức tường chia cắt Đông Tây ngày nào

1000 tảng domino là bằng bọt xốp, cao 2,50m, rộng 1 mét, dày 40 cm, nặng 20 kg, do học sinh Berlin và các nghệ sĩ quốc tế trình bày thành các tác phẩm nghệ thuật được dựng theo đường bức tường chia cắt Đông Tây ngày nào

mauer-domino 1mauer 02

Cựu thủ lĩnh phong trào Công đoàn Đoàn kết và Cựu Tổng thống Ba Lan Lech Walesa được vinh dự đạp đổ tảng domino đầu tiên

Cựu thủ lĩnh phong trào Công đoàn Đoàn kết và Cựu Tổng thống Ba Lan Lech Walesa được vinh dự xô đổ tảng domino đầu tiên

 


Dãy domino xuất phát từ Quảng trường Potsdamer Platz bị xô đổ

Màn pháo hoa kết thúc Lễ hội của Tự do

Màn pháo hoa kết thúc Lễ hội của Tự do

 

Nguồn: Talawas.de