Thứ Ba, 14 tháng 10, 2008

Nhìn lại cuộc di cư 1954-1955 (V)

Nguyễn Văn Lục



Tín Phiếu và vàng của đồng bào di cư vào Nam

Đây cũng là những chi tiết tài liệu khá lý thú. Đây là những số tiền mà Việt Cộng đã tịch thu của đồng bào cũng như số tiền tín phiếu Hồ Chí Minh tổng cộng là: 2.533.257.860 đồng. Số tiền mà Việt Minh đã nuốt không của đồng bào liên khu V khi di cư vào Nam tại các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định.

Như trường hợp đòi đất ở Thái Hà hiện nay, bao giờ đến lượt chúng ta vác đơn ra tòa án quốc tế để kiện đồng loạt về sự chiếm hữu tài sản đất đai của người di tản và nhất là tài sản của các giáo hội như trường học, nhà thương, các cơ sở xã hội sau 1975? (Trích Hồ Đắc Huân, 6 năm hoạt động của chính phủ VNCH , trang 257)

Tiếp theo là vô số thư phản kháng gửi Ủy Hội về vấn đề phá rối miền Nam (trường hợp Việt Minh ám sát đại tá Hoàng Thụy Nam, đại diện chính phủ VNCH bên cạnh Ủy Hội), phá hoại đường xá, cầu cống, đường sắt và các hồ sơ tư pháp của hai tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định.

Phái đoàn bên cạnh Ủy Hội của VN cũng cho xuất bản một cuốn Bạch thư bằng tiếng Pháp, sau dịch ra tiếng Anh, năm 1959 (trích Hồ Đắc Huân với cuốn 6 năm hoạt động của chính phủ VNCH) để kết án cộng sản vi phạm Hiệp định Geneva.


Những ngày cuối cùng ở các trại tạm cư Hải Phòng

Xin nhấn mạnh một chi tiết là việc rút quân không đồng loạt là 300 ngày, nhưng được định riêng cho từng khu vực với các thời hạn khác nhau. Nhất là trong việc di chuyển quân đội Pháp. Quân đội Liên Hiệp Pháp phải rút khỏi:
– Khu Hà Nội : 80 ngày
– Khu Hải Dương : 100 ngày
– Khu Hải Phòng : 300 ngày

Rồi thì cái thời gian hết hạn nó cũng sẽ đến.

Nhưng ngày 12/10 cũng đánh dấu giai đoạn đầu của cuộc di cư đã chấm dứt và đã thành công với hơn 200.000 đã được đưa vào miền Nam. Đây cũng là lúc mọi người chờ xem Việt Minh, kẻ mới tới, đối xử ra sao với người dân Hà Nội? Nhiều người hy vọng rằng sẽ được đối xử tử tế?

Dĩ nhiên còn lại 200 ngày của Hải Phòng để người dân nhận biết vàng thực hay vàng giả. Vì thế, không ít người đã trì hoãn lại việc ra đi vào miền Nam. Cộng thêm tết nhất gần tới, dân quê thì muốn thu gặt cho xong... Bấy nhiêu lý do để người di cư sống chờ đợi. Wait and see.

Dưới đây, xin ghi lại chứng từ của bác sĩ Dooley, một trong những người Mỹ cuối cùng còn ở lại miền Bắc, Hải Phòng trước thời hạn tiếp thu. Bác sĩ Dooley (1927-1961) làm việc trên tầu USS Montague, sau ông tình nguyện làm việc cho các trại tạm cư tại Hải Phòng, ông được đại tá tình báo Edward G. Landsdale tin dùng. Sau 1955, ông tình nguyện sang Lào mở chẩn y viện rồi bị bệnh ung thư, ông chết rất sớm. Có những vận động phong thánh cho ông, nhưng không có kết quả, ông bị tai tiếng vì đồng tình luyến ái.

Sau này, TT Kennedy, nước Mỹ coi ông như một biểu tượng cho giới trẻ Mỹ.

Nguyên văn lời tưởng lệ Thủ tướng Diệm đọc tại phòng họp Nội các trước Bs Tom Dooley và quan khách (May 12, 1955 - Sau này Đại tá E. Landale cho Dooley hay nguyên văn bản tưởng lệ do chính Landale đánh trên bàn máy của mình.
Nguồn: Dr. America: The Lives of Thomas A. Dooley, 1927-1961, (trang 60), James T. Fisher
Nhưng đối với người Việt thì coi ông tượng trưng cho lòng nhân đạo và lòng bác ái.

Cuộc di cư này đậm nét với biểu tượng hình ảnh bác sĩ Dooley. Người Việt di cư còn rất xa lạ với người Mỹ. Nhưng qua bác sĩ Dooley như một thứ đại sứ tinh thần, người Việt di cư nhìn người Mỹ với đôi mắt thiện cảm và lòng biết ơn.

Không mấy người Việt di cư mà lại không một lần nghe về vị Bác sĩ này. Ông đã sát cánh bên cạnh người di cư từ lúc đầu đến lúc cuối, nhờ đó ông báo cáo những khó khăn đủ loại mà người di cư gặp phải trong lúc tạm thời ở các trại tiếp cư. Ông cũng là một trong những người Mỹ cuối cùng ở lại để thu dọn các trại tiếp cư trước khi ra Đồ Sơn và từ đó lên tầu vào Miền Nam. Bác sĩ Dooley đã ghi lại hồi ức cái ngày cuối cùng đáng ghi nhớ ở Hải Phòng như sau:
“It was relatively quiet during the transition. The Navy Base close to day, the piers are gone, the building are emptied. There is nothing left in my warehouse there; all have been transferred to the ship.” (Trích OPTF, trang 204)
“Trong lúc chuyển tiếp thì tương đối yên ổn. Căn cứ Hải quân hôm nay đóng cửa, các bến tầu đã mất dạng và tòa nhà thì trống không. Chẳng còn thứ gì trong kho hàng của tôi ở đó cả, tất cả đã được chuyển lên tầu rồi”.

Điều này cần được nhấn mạnh thêm, vì phần đông người di cư đã không biết rằng, trong cuộc di cư người này, cả người Mỹ và người Pháp đều không muốn để lại bất cứ tài sản vật chất nào xét ra có lợi cho cộng sản. Ngoài 300.000 ngàn tấn trang thiết bị quân sự trù liệu được chở vào Nam. Phần còn lại gồm phần lớn các cơ sở kỹ nghệ nhẹ được người Pháp và chính quyền Quốc gia giúp đỡ để chuyên chở vào miền Nam. Người ta trù liệu đến việc tháo gỡ nhà máy cement Hải Phòng, mỗi năm sản xuất khoảng 400.000 tấn. Mỏ than Hòn Gai chừng 2 triệu tấn/năm, nhà máy dệt Nam Định v.v... Cho dù, dự định tháo gỡ toàn bộ trang thiết bị không thể thực hiện đồng bộ thì công việc tháo gỡ từng phần cũng gây trở ngại không ít cho chính quyền Việt Minh sau này.

Ngày 9 tháng 5, chuyển giao quyền hành cảng Hải Phòng cho Việt Minh mà không có điều gì trục trặc xảy ra kết thúc hơn một năm trời việc tiếp đón và chở người di cư miền Bắc vào miền Nam.

Chiếc tầu chiến cuối cùng của Mỹ rời Đồ Sơn là chiếc General Brewster mang theo toàn bộ lực lượng an ninh của Pháp còn ở lại cũng như tất cả các trang thiết bị của họ. Chưa kể hơn 500 người di cư cuối cùng trong đó có người cha và đứa con gái ra di để lại vợ, vì bà này không muốn đi khỏi Hà Nội.


Giai đoạn di cư: Operation Passage to Freedom.

Để di chuyển hơn 800.000 người di cư từ miền Bắc vào miền Nam, một mình người Pháp và chính quyền quốc gia không thể nào cáng đáng nổi.

Thủ tướng Ngô Đình Diệm đã kêu gọi sự giúp đỡ của người Mỹ vào công việc này. Tổng thống Eisenhower hưởng ứng lời kêu gọi của thủ tướng Diệm đã ra lệnh cho Chủ Lực (Task Force – DCVOnline) 90 của đệ thất hạm đội Mỹ đến Việt Nam giúp đỡ việc chuyên chở người di cư. Đoàn này đã trở thành những chiến sĩ hòa bình giúp đỡ dân chúng miền Bắc đi tìm tự do. (Trích Cuộc Di Cư Lịch Sử, trang116)

Kể từ ngày 8 tháng 8 cho đến 20/ 8/1954, chương trình của quân đội Pháp là di chuyển bằng máy bay vào khoảng 1500 người mỗi ngày với tổng số 15.400 người. Cho đến tháng 5 năm sau, máy bay Pháp đã di chuyển vào Nam được 172.783 thường dân Việt Nam, 6187 quân đội quốc gia và 25.459 quân đội Pháp. Cộng chung, máy bay của Pháp đã chuyên chở đươc 213.635 người di cư, 11.206 thường dân Pháp.

Tầu của Pháp cũng di chuyển được tổng cộng là 234.975 người di cư. Nếu cộng chung hai số lượng người di cư vào miền Nam bằng máy bay và bằng thuyền thì người Pháp đã chở được gần nửa triệu người di cư vào miền Nam, con số chính xác là 448.610 người. (Trích OPTF, trang 205)

Số còn lại hơn 300.000 người di cư là do người Mỹ đảm trách theo kế hoạch có tên Operation Passage to Freedom.

Những con số vừa nêu trên so với tài liệu chính thức trong Cuộc Di Cư lịch sử của Phủ Tổng Ủy di cư cũng không mấy khác khác biệt.

Theo tài liệu trong Cuộc Di Cư lịch sử , máy bay Pháp chở được 4280 chuyến, tổng cộng 213.635 người. Bên cạnh máy bay của Pháp còn có các hãng máy bay tư giúp sức như Air France, Air-Việt Nam, Autrex, Aigle-Azur, Air-Outremer, Cat, Cosara và U.A.T. Đó là cây cầu hàng không lớn nhất nối liền giữa Hà Nội, Hải Phòng- Sài Gòn, dài 1174 cây số.

Trong lòng mỗi chiếc máy bay đã được tháo gỡ hết các ghế và dụng cụ để dành thêm chỗ rộng trở thêm được nhiều người tỵ nạn.

Tàu thủy Pháp chở được 338 chuyến, tàu Mỹ 109 chuyến, tàu Anh 2 chuyến, tàu Trung Hoa, 2 chuyến, tàu Ba Lan, 4 chuyến, tổng cộng là 555.037 người.

Và một số người đi bằng phương tiện riêng là 102.861 người.

Cộng chung tất cả là 871.5533. Một con số được coi là khá chính xác. (Trích Cuộc Di Cư lịch sử , trang 120)

Trước khi thực hiện kế hoạch này, người Mỹ đã chuẩn bị kỹ càng mọi chuyện như thăm dò cảng đỗ cho tầu chạy dài từ Hải Phòng ra đến Đồ Sơn, phòng ngừa sự phá hoại của Việt Minh đối với các tầu chiến đậu ở cảng và ngoài khơi Hải Phòng. Chuẩn bị đủ các loại tầu cho việc di chuyển này: đủ loại tầu tiếp viện, đủ loại tầu đổ bộ, đủ loại tầu chở xe tăng, thiết giáp, tầu sửa chữa, tầu cao tốc, tầu tấn công, tầu dầu, tầu bệnh viện vv..Tất cả là 113 chiếc.113 chiếc này đã chuyển người từ Bắc vào Nam, có chiếc đã 3 hoặc 4 lần di chuyển từ Bắc vào Nam. Chẳng hạn các tầu há mồm LST đã để ra 651 ngày hải trình trên biển. Loại tầu LCU để ra 579 ngày. Loại tầu APA 264 ngày. Tổng cộng toàn thể các tầu Mỹ đã để ra 2181 ngày hải trình để chuyên chở người di cư từ Bắc vào Nam. (Trích OPTF, trang 139)

Đó là những con số khó có thể tưởng tượng ra nổi. Nó nói lên nhiều điều, trong đó báo hiệu kể từ nay, nước Mỹ sẽ còn dính dáng nhiều đến chính thể miền Nam còn non trẻ. Những tên tuổi như Eisenhower, Nixon, Kennedy, Johnson, Kissinger, Mc Namara sẽ gắn liền với những biến cố lớn nhỏ ở miền Nam.

Số phận dân miền Nam nay tùy thuộc họ. Lúc đầu họ đến với những hào quang, lòng kính phục, lúc họ đi chỉ còn là cay đắng và miệt thị.

Nhưng dù thế nào thì họ cũng đã đến.

Muốn chuyên chở được như thế, Hải quân Mỹ phải hủy bỏ tất cả các hải trình huấn luyện đã nằm trong kế hoạch với chính phủ Nam Hàn v.v...

Ngoài ra họ đã chuẩn bị 85 ngàn phao cứu sinh, life jackets, 85 ngàn chiếu, 700.000 đôi đũa, 17 ngàn sô đựng nước, 150 ngàn tấn gạo. Còn cần chuẩn bị đầy đủ xăng dầu, đồ khô, đồ đông lạnh, ly giấy cho mỗi chuyến hải trình.

Họ tổ chức bài bản lắm. Từng chi tiết một. Từng nhu cầu nhỏ cho người di cư theo cách sống của họ. Một cái kẹo cho trẻ nhỏ, nghe thì dễ, nào đã mấy người nghĩ ra được? Vì thế, trẻ con mới nhớ đời. Người lớn thì từ cái bàn chải đánh răng, kem đánh răng, chiếc khăn mặt mà rất nhiều người di cư xử dụng lần đầu tiên trong đời họ.

Phải nói là đâu ra đấy. Hơn Pháp nhiều. Không phải chỉ có tiền bạc mà còn là óc tổ chức, rất lô gích. Tỉ dụ, để cho tầu chiến của họ có bến đậu, Pháp chẳng giúp gì được cho họ. Họ làm đủ các thứ cần thiết để bảo đảm cho tầu của họ có thể cập bến an toàn suốt từ Hải Phòng ra đến Đồ Sơn. Trong vòng có mấy ngày phải xong.

Trên tầu, vấn đề vệ sinh cá nhân cho người di cư là tối cần thiết. Thủy thủ Mỹ đã “sáng chế ” những cầu tiêu dã chiến bằng các sô nhựa cắt đôi, rồi ghép ván lên trên để ngồi. Một chiếc tầu chở 2000 người cần có 50 chiếc cầu tiêu dã chiến như thế. Và còn phải chỉ dạy cách xử dụng cho đúng, vì có nhiều người tị nạn xử dụng các thùng cầu tiêu này để giặt giũ và tắm rửa cho trẻ con.

Ê, ráng mà quất banh qua thành tầu nha. Chú mày (ở truồng) thì không cách gì mà “chùi” được
Nguồn: National Geographic, số tháng 6 1955
Họ đáng hãnh diện về những điều họ đã làm. Mà những việc làm này do những thủy thủ tầm thường trên tầu tự nghĩ ra. Không ai dạy họ. Cũng không ai ra lệnh cho họ phải làm. Không ai bắt họ phải dạy cho một đứa trẻ lên 5 cách cầm cây gậy khúc côn cầu. Không ai dặn dò một thủy thủ da đen cạo sơn trên thành tầu với một chú thợ phụ chưa quá 8 tuổi. Cả hai làm việc một cách tự nhiên và thoải mái.

Những cảnh như thế đẹp lắm. Rất là người.

Họ lo cho bữa ăn người tị nạn một cách gọn và chu đáo, hợp khẩu vị được chừng nào hay chừng đó.

Họ tỏ ra rất nhân bản, đầy tình người. Còn người tị nạn tỏ ra một quyết tâm không gì lay chuyển được. Hai yếu tố tinh thần đó đã làm nên chuyện lớn: chuyện người di cư 54-55. Đó cũng là chuyện người đàn ông đang kéo một chiếc xe bò, mặc quần xà lỏn, đôi chân trần gò lưng kéo xe. Đằng sau chỉ thấy loáng thoáng một bóng dáng phụ nữ đẩy xe và ba bốn bàn chân khác nhìn được dưới gậm xe.

Tôi nhìn và thấy ở đấy sức mạnh của người di cư 54-55.

Như lời nhận xét của tác giả OPTF, trang 163:
The stories of the Vienamese provide insight into not only the obstacles they had to face from the Viet Minh but also the strenght of conviction that helped them go on this passage to freedom. Mr Tran Van Tru, a fifty-six-year-old catholic farmer from Hải Hậu district, Bui Chu province, told what the eight people in his family went through to arrive in Hai Phong: We abandoned our house, our garden, our rice field to flee South. We arrived November 2, 1954, without having been able to bring any thing with us”.

“Nội dung câu chuyện của những người dân Việt cho thấy không chỉ vì những chướng ngại mà họ phải đối diện với bọn Việt Minh, mà còn là niềm xác tín vững mạnh đã giúp cho họ tiếp tục trên con đường đi tìm tự do. Ông Trần Văn Trụ, một nông dân công giáo, 56 tuổi, đến từ huyện Hải Hậu, tỉnh Bùi Chu, kể lại những gì mà 8 người trong gia đình ông đã trải qua để tới Hải Phòng: Chúng tôi đã bỏ lại tất cả nhà cửa, vuờn tược, ruộng nương để chạy trốn vào trong Nam. Ngày 2 tháng 11, 1954, chúng tôi đến nơi mà không mang theo được một thứ gì'.”

Rất tiếc là ngày nay, ít khi chúng ta còn được nhìn thấy những đôi mắt quyết tâm như thế.

Dân quê VN có thể không sử dụng thuần thục cầu tiêu dã chiến nhưng làm quen rất nahnh với giường treo 4 tần kiểu HQ Mỹ
Nguồn: National Geographic, số tháng 6 1955
Trên mỗi tầu, Hải quân Mỹ yêu cầu người Pháp cung cấp thông dịch viên, nhưng không có đủ. Một số người di cư có học và nhất là một số linh mục đã giúp một tay đắc lực trong truyện này. Vai trò của mấy vị linh mục trên mỗi chuyến tầu như trung gian để giải quyết những khó khăn cũng như khi cần giải thích hoặc quy luật nội bộ cần phải được tôn trọng và tuân theo trên tầu.

Người viết nghĩ rằng, người Mỹ đã tổ chức, kế hoạch tỉ mỉ, quy mô, dự liệu tất cả mọi nhu cầu cần thiết cho người tỵ nạn khi bước lên tầu cho đến lúc rời khỏi tầu. Những kỷ niệm đẹp, nhiều kỷ niệm khó quên trên các chuyến tầu Mỹ chở người di cư, nay nhiều người không thể không nhớ lại.

Có những thủy thủ đoàn đã quyên góp tiền lương và tặng lại cho người di cư đi trên các chuyến tầu của họ.

Nhiều người sẽ không quên được những giường nằm cá nhân treo lủng lẳng lên bằng những giây xích sắt gồm bốn tầng đu đưa trên không. Những gói quà nho nhỏ “welcome kits” do thủy thủ đoàn trao tặng mỗi người tị nạn trong đó có thuốc đánh răng, bánh xà bông, khăn mặt, kẹo và hộp sữa nhỏ có ghi: From the people of America to the people of Viet Nam – a gift. (Tóm lược bài báo của Gertrude Samuels, Passage to Freedom in Việt Nam, National Geographic, số tháng 6-1955, trang 15)

Khi đặt chân xuống cảng Sài Gòn, người ta nhận thấy hình ảnh những người di cư, phần đông người nào cũng đội một cái nón, áo vải nâu đậm khác với mầu đen của người Sài gòn. Người Bắc áo nâu, người Nam áo đen. Đàn bà chít khăn, rẽ ngôi giữa, răng nhuộm đen, đi chân đất, dáng mệt mỏi tay xách nách mang hoặc bồng con dại, nét mặt ngơ ngác, ngại ngùng bối rối, câm lặng khi bước chân đến một nơi xa lạ như đất Sài Gòn. Một Sài Gòn xa hoa, thanh lịch, xe cộ chạy như mắc cửi đến lóa mắt, nhất là những chiếc xe gắn máy lao đi như một mũi tên nhả khói mù mịt cộng với tiếng còi xe inh ỏi, tiếng nói lạ tai.

Xin dẫn một chứng từ về tâm trạng một người di cư khi đặt chân lên bến cảng Sài Gòn đã được đăng trên báo Tự Lập như sau:
“Hải Phòng, tờ mờ sáng, trên các ngả đường, đông đảo đồng bào đã lũ lượt chen chúc để lên xe chở đến bến tầu thủy vào Nam. Tưng bừng và náo nhiệt... Tất cả nói lên sức sống rồi rào và tinh thần bất khuất của quần chúng dưới ách độc tài cộng sản... Hành lý cồng kềnh nặng nề của đồng bào đã có đoàn cán bộ đeo thẻ trắng ở ngực tận tâm khuân vác giúp xuống tầu. Chúng tôi đã nhanh nhẹn trèo lên boong tràn ngập niềm tin. Đối chiếu luận điệu tuyên truyền của VM với những điều tai nghe mắt thấy ở đây, người ta đều thông cảm nhau qua nụ cười mỉa mai có ý khinh bỉ. Trông kìa, một thủy thủ ngoại quốc già đang học gánh, ông ta gù cả lưng, rụt cả cổ, hai tay trước mặt cố đè cái đầu đòn gánh cho khỏi bị võng mà vẫn nặng quá, loạng choạng không sao bước được. Trên tầu, những tràng cười nổi lên.

Tầu nhổ neo và dần dần ra biển. Tầu Marine Serpent, một chiếc tầu Mỹ lớn có thể chở được 6.000 người... Chúng tôi tha hồ ngắm cảnh nước non, lòng tôi thư thái, tâm hồn tôi phơi phới. Phải chăng, tôi vừa thoát khỏi một chốn tù đầy mà sống lại ở giữa cõi đời? Gặp nhau đây là xóm làng họ hàng, là bà con thân thích cả. Dưới trời tự do, sức lực con người sẽ đem ra xây dựng cho đời mình cơm no áo ấm, khỏi phải “ký cóp cho cọp nó sơi”, kẻ làm, sống khổ, người ngồi ăn ngon. Sự tổ chức trong tầu chu đáo và khoa học lắm. Người ta được lĩnh cơm ngày hai bữa, rất đầy đủ, món ăn được săn sóc kỹ càng... Mấy vị bác sỹ người Mỹ thân hành đi buồng này đến buồng khác, dừng lại trước giường nằm của từng người đề phân phát thuốc chữa say sóng.

Tầu cập bến Sài Gòn một sớm mai trời đẹp. Bình minh lên như đời sống đang vươn lên.. ánh sáng rực rỡ của mặt trời phương Nam cũng là ánh sáng tự do của đồng bào di cư Bắc Việt hàng khao khát.. Đồng bào chen chúc lên đứng chật boong, lặng nhìn “cảnh ngựa xe như nước của hòn ngọc Viễn Đông”. Lòng người bâng khuâng, hồi hộp trước sự tiếp đón dản dị nhưng cảm động của chính phủ Quốc Gia...

Riêng gia đình ông Phạm Hùng Sơn, chủ gia đình thứ 100.000 người di cư do tầu thủy Mỹ chở vào... Hải quân Mỹ đã dành riêng chiến hạm G.C 12 để chở mình gia đình ông vào Nam. Và chính Thủy sư đô đốc Hải quân Mỹ cũng có mặt trên chiến hạm này để săn sóc gia đình ông Phạm Hùng Sơn” (trích Cuộc Di cư lịch sử, trang 122-123)

Và chỉ đến cuối năm 1954, nghĩa là sau 4 tháng hoạt động, các chiến hạm Mỹ đã chuyên chở được 175.227 thường dân và 14.089 binh sĩ từ Bắc vào Nam Cộng thêm 6388 xe cộ và 50.238 tấn trang thiết bị. Nghĩa là hơn một phần ba trên tổng số người di cư do Hải quân Mỹ đảm nhận. (Trích OPTF, trang 193)

(Còn tiếp))

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét